Nguyễn
Du ( 阮攸) Ất Dậu (1766), tên chữ là Tố Như (素如),
hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng
Sơn lạp hộ (鴻山獵戶). Tổ tiên ông vốn là dòng dõi Nguyễn Xí (tướng của Lê Lợi) gốc ở làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh sau di sang làng Tiên
Điền củng huyện. Thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng),
tước Xuân Quận Công dưới triều Lê... Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên
cứu sử học. Vì vậy Ông được sinh ra tại
Thăng Long.
Ông Nghiễm có cả thảy tám
vợ và 21 người con trai. Nguyễn Du đứng hàng thứ
bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy. Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), người xã Hoa
Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32
tuổi.
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống
trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã
mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với
người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi).
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại
Việt.
Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống nhưng không kịp, nên về quê vợ, ở Quỳnh Côi ở
Thái
Bình,
sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn.
Được vài năm, Nguyễn Du
về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh đang hoạt động mạnh, ông
định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây bắt giữ
ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho
đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên
ngôi lấy niên hiệu Gia
Long,
thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức
Tri huyện tại huyện Phù Dung (Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi
làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du lại
được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột vì bịnh dịch ở kinh đô Huế năm 1820 và tang ỏ Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).
Nguyễn Du là một nhà thơ
lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.
寄友
Ký Hữu
漠漠塵埃滿太空
Mặc
mặc[1]
trần ai mãn thái không
閉門高枕臥其中
閉門高枕臥其中
Nhất
thiên minh nguyệt giao tình tại
百里鴻山正氣同
百里鴻山正氣同
Bách
lý Hồng Sơn chính khí đồng
眼底浮雲看世事
眼底浮雲看世事
Nhãn
đề phù vân khan thế sự,
腰間長劍掛秋風
腰間長劍掛秋風
Vô
ngôn độc đối đình tiền trúc
霜雪消時合化龍
霜雪消時合化龍
Sương
tuyết tiêu thì hợp hóa long
阮攸 Nguyễn Du
Gửi Bạn
阮攸 Nguyễn Du
Gửi Bạn
Bụi trần bay khắp
không gian.
Cửa cài, then đóng nằm
khan trong nhà.
Một trời trăng tới
cùng ta.
Hồng Sơn trăm dặm cũng
là ý chung.
Nhìn đời là việc mung lung.
Vai đeo trường kiếm, gió cùng thu chơi.
Trong sân, trúc chẳng
ngỏ lời.
Tuyết sương tan rã, mây
trời hóa long.
VHKT
Mù mịt bụi trần bay khắp nơi.
Cài then, lấy gối để
nằm ngơi.
Trên trời, trăng sáng xin làm bạn,
Dưới đất, núi dài muốn ngỏ lời.
Mắt ngó cuộc đời là phiếm ảnh.
Vai đeo trường kiếm gió thu chơi.
Một mình im lặng nhìn cây trúc.
Sương tuyết thành long bay giữa trời.
VHKT