Tuesday, April 30, 2013
TIN BUỒN:
Tôi nhận được tin ông Đào Khánh Thọ- Cựu hiệu trưởng trường trung học Tống
Phước Hiệp, cựu trưởng khu học chính vùng 4 mới từ trần ngày 29 tháng 4.
Tang lễ đã cử hành ngày hôm qua.
Chân thành chia buồn cùng tang quyến.
Võ Hiệp.
Tìm hiểu: Không thám bài 2
(CHÚ Ý, NẾU BẠN ĐỌC MUỐN TÌM HIỂU CÁC BÀI TRƯỚC THÌ KÉO XUỐNG PHÍA DƯỚI
HAY NHẤN VÀO PHẦN CHỌN BÊN TAY PHẢI CỦA TRANG NÀY)
I-
Thế Chiến I và II
Đến Thế Chiến I, khi con người đã phát minh ra phi cơ, như đã viết trên,
thì việc dùng phi cơ tìm hiểu chiến trường địch được áp dụng nhiều hơn. Ngày
ấy, một nhiếp ảnh gia ngồi trên phi cơ loại 2 cánh: một trên, một dưới, phía
sau phi công chụp hình rồi đem về hậu phương rửa ảnh. Sau đó, một nhóm người
trong văn phòng tình báo sẽ nghiên cứu và phân tích ảnh. Về sau, người ta ráp
máy hình vào bên hông máy bay. Người phi công vừa bay vừa chụp hình.
Trận chiến dùng không ảnh nổi tiếng trong thế chiến thứ I là trận Neuve-Chapelle- Bỉ giữa quân đội
liên hiệp Anh-Ấn và Đức năm 1915. Trong trận này máy bay Anh chụp hình các địa
đạo địch quân.
Đến Thế Chiến thứ II, phi cơ vẫn còn là phi cơ cánh quạt và nhiệm vụ
không thám tiền tuyến trao cho các phi cơ dân sự nhẹ, bay chậm như chiếc Bà Già
(Cessna). Nếu so với các phi cơ chiến đấu thì phi cơ này chẳng mấy quan trọng. Cũng
trong Thế Chiến II, các nước đã cải biến một số máy bay chiến đấu, oanh tạc
thành máy bay thám thính bằng cách bỏ súng ống, hay các chứa bom đạn rồi ráp
các máy hình lên đó để đi chụp hình hậu tuyến địch. Anh Quốc đã biến cải chiếc chiến
đấu cơ Spitfire và Mosquito thành do thám.
Mosquito
Trong khi ấy, Hoa Kỳ cũng cải biến chiếc chiến đấu cơ và oanh tạc cơ thành
chiếc phi cơ trinh thám như: Fairchild 71 (1926), Beech At-7, Douglas A-20
Havoc, North American Aviation P-51, F-5 Lightning, P38-
Lightning của Lockheed…Tổng cộng có tới vài chục loại.
Hình Douglas A-20,
North
American Aviation P-51 Mustang và
P38 Lightning
của Lockheed
Mãi đến năm 1947, Hoa Kỳ mới thực sự phát triển một loại phi cơ riêng
biệt để làm việc do thám khi nhận thấy tầm quan trọng của không ảnh và kiểm
soát chiến trường và đặc biệt điểm chỉ, điều chỉnh mục tiêu cho pháo binh. Kết
quả hãng Cessna[1]
đã được chọn. Đây là một hãng máy bay nhỏ, có tổng hành dinh đặt tại Wichita-
tiểu bang Kansas (trung bộ Hoa Kỳ). Hãng này chuyên sản xuất các máy bay động
cơ thường hay phản lực nhỏ. Hãng cũng còn sản xuất các trực thăng. Khi đựơc CIA
và USAF chọn, hãng này đã dùng mẫu máy bay một động cơ, một chỗ ngồi hiện có là
Cessna 170 để biến cải thành Cessna 350. Cách cải tiến mới này là làm thành 2
chỗ ngồi: một cho phi công; một cho quan sát viên. Họ cũng biến tiến các cửa sổ
lớn hơn, để có tầm nhìn rộng và ngay bên dưới chỗ ngồi của quan sát viên được làm
bằng plastic trong để người ấy có thể nhìn thẳng từ trên không xuống mục tiêu.
Sau nhiều lần thử và cải tiến hãng đổi tên chiếc máy bay trên thành L 19-
Bird Dog.
Trong thập niên 1960, người miền Nam Việt Nam được dịp xem phim The
Battle of Bulge. Trong phim ấy, người ta thấy một phóng viên chiến trường
(Henry Fonda) ngồi trên một chiếc Cessna tình cờ chụp được hình một số chiến xa
Đức mai phục trong rừng. Ông đem hình về và cho các vị chỉ huy chiến trường,
nhưng chẳng ai tin ông.
Ngay trong chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên 1950-153) hay trong chiến tranh
Việt Nam (1945-1975) các loại máy bay Cessna L 19 Bird Dog vẫn đảm nhiệm phần
lớn việc do thám tiền tuyến. Vì vậy, đối với người Việt đã không lớn trong
chiến tranh thì không ai không thấy hình ảnh này:
A U.S. Army L-19 (O-1) with a fuel tanker at LZ
Baldy, near Hoi An,
Republic of Vietnam, late 1967 or early 1968
Hình L 19
BirdDog
Trong phạm vi nhỏ hẹp của một trận đánh hay các do thám vùng không xa
đường biên giới lắm, L 19 rất tiện dụng. Nó còn giúp cho các vị chỉ hủy chiến
trường quan sát trận thế. Loại máy bay này rất nổi tiếng để các quan sát viên
chỉ điểm cho pháo binh hay phi cơ chiến đấu oanh tạc một mục tiêu.
Trong khoảng từ 1945 đến 1950, các nước tiên tiến lại lo cho ra lò các
trực thăng làm công việc trinh sát gần song song với các máy bay nhẹ như trên.
Hình trực thăng OH-6 Cayuse
[1]
Hãng Cessna ngày nay đã đem một bộ phận sang sản xuất mẫu Cessna 162 tại Trung
Quốc. Vì vậy, việc này
đã gây nên một chuỗi các phản ứng trái ngược nhau.
Thursday, April 25, 2013
Bát trận đồ
八 陣 圖
Bát trận đồ
功 蓋 三 分 國
Danh thành Bát trận đồ[3]
江 流 石 不 轉
江 流 石 不 轉
Giang lưu thạch bất chuyển,
遺 恨 失 吞 吳
遺 恨 失 吞 吳
Di hận thất thôn Ngô[4].
杜 甫
Đỗ Phủ
Ẩn dịch nghĩa:
Bát trận đồ
Công lớn, biết nước chia làm ba,
Nổi danh trận Bát Quái đồ.
Nước sông cứ chảy, đá không di chuyển,
Để lại hận đã không thôn tính Ngô.
Công lớn, biết nước chia làm ba,
Nổi danh trận Bát Quái đồ.
Nước sông cứ chảy, đá không di chuyển,
Để lại hận đã không thôn tính Ngô.
Công lớn, chia ba nước.
Nổi danh bát trận đồ.
Sông trôi, nước chẳng chuyển.
Di hận không tiêu Ngô.
VHKT
Tam phân thiên hạ được công to.
Có trận Bát Quái làm cho danh lừng,
Sông chảy, mà đá lại ngừng.
Buồn can Lưu Bị
chớ dừng diệt Ngô.
VHKT
VHKT
Wednesday, April 24, 2013
Bách thiệt
百 舌
Bách thiệt
百 舌 來 何 處,
Bách thiệt lai hà xứ,
重 重 只 報 春。
重 重 只 報 春。
Trùng trùng chỉ báo xuân.
知 音 兼 眾 語,
知 音 兼 眾 語,
Tri âm kiêm chúng ngữ,
整 翻 豈 多 身。
整 翻 豈 多 身。
Hoa mật[4]
tàng nan kiến,
枝 高 聽 轉 新。
枝 高 聽 轉 新。
Chi cao thính chuyển tân.
過 時 如 發 口,
過 時 如 發 口,
Ngộ thì như phát khẩu,
君 側 有 讒 人。
君 側 有 讒 人。
Quân trắc hữu sàm nhân.
杜 甫 Đỗ Phủ
Nghĩa
Chim khướu
Chim khướu
Chim khướu từ đâu đến đây?
Từng đàn chỉ báo mùa xuân về.
Biết kêu tiếng mọi loài chim,
Khi sửa đổi bộ thì tưởng như có nhiều thân.
Trong hoa rậm ẩn khó thấy,
Trên cành cao chuyển giọng mới mẻ.
Gặp lúc mở miệng hót,
Thì bên người có kẻ dèm pha.
Từng đàn chỉ báo mùa xuân về.
Biết kêu tiếng mọi loài chim,
Khi sửa đổi bộ thì tưởng như có nhiều thân.
Trong hoa rậm ẩn khó thấy,
Trên cành cao chuyển giọng mới mẻ.
Gặp lúc mở miệng hót,
Thì bên người có kẻ dèm pha.
Chim khướu ở đâu lại?
Từng đàn chỉ báo
xuân.
Biến âm, nghi lắm
loại.
Đổi cách, tưởng
nhiều thân.
Trong bụi, nhìn
không thấy.
Trên cành, nghe
khác âm.
Qua giờ nghe khướu
hót.
Gièm pha thói thế
nhân.
VHKT
Chim khướu từ đâu lại chốn này.
Từng đàn đến báo xuân về đây.
Nghe như trăm loại, khi ca hát.
Nhìn tợ ngàn thân, lúc múa may.
Trong bụi hoa thơm, nhìn khó thấy.
Trên cành cao thẳm, chuyển âm hay.
Qua giờ mở miệng chim đua hót.
Trong chốn phàm nhân sẽ nói mày.
VHKT
Tuesday, April 23, 2013
Bệnh mã
病 馬
Bệnh mã[1]
乘 爾 亦 已 久,
Thừa nhĩ diệc dĩ cửu,
天 寒 關 塞 深。
天 寒 關 塞 深。
Trần trung lão tận lực,
歲 晚 病 傷 心。
歲 晚 病 傷 心。
Tuần[7]
lương do chí kim.
物 微 意 不 淺,
物 微 意 不 淺,
Vật vi ý bất thiển,
感 動 一 沉 吟。
感 動 一 沉 吟。
Cảm động nhất trầm ngâm.
杜 甫 Đỗ Phủ
Ngựa bị bệnh
Ngựa bị bệnh
Cỡi mày lâu
quá rồi.
Vượt trời
lạng, qua quan ải.
Bụi bậm,
trung với lão hết sức.
Cuối năm bị
bệnh thật đáng thương.
Lông, xương
khác con ngựa thường.
Thuần hậu
vẫn từ xưa đến nay.
Con vật ý
không nông cạn.
Cảm động
với trầm ngâm.
Cỡi mày đã quá lâu.
Tuyết lạnh hay non sâu.
Tận lực trung cùng lão.
Cuối năm, bịnh phát rầu.
Lông, xương đâu khác biệt.
Thuần hậu chẳng sai đâu.
Là vật, mày không ý.
Nhìn mày tao thật sầu.
VHKT
Này ngựa, cỡi mày đã quá lâu.
Này ngựa, cỡi mày đã quá lâu.
Lội sông, vượt tuyết hay non sâu,
Tận trung cùng lão, lòng đâu quản.
Bệnh hoạn cuối năm, thật phát rầu.
Đuôi, vó, lông, da đâu có khác.
Lâu nay thuần hậu chẳng sai đâu.
Chỉ vì là vật, mày không nói.
Những lúc nhìn mi, thấy thật sầu.
VHKT
[1] Bài này làm vào
khoảng đi Tần Châu, năm 759 và cũng là một bài thơ nói lên được tinh thần nhân
đạo của Đỗ Phủ.
[3][3] Hai câu này rất
cô đọng. Chỉ có mười chữ mà đến sáu ý. Ý nói trong cơn gió bụi, ngựa đã già mà
còn phải đem hết sức ra đưa ta đi, bây giờ năm đã tàn, ngựa lại ốm, làm sao ta
không thương tâm cho được.
[4] há, hay sao (dùng trong câu hỏi)
[5] 1. chấm dứt, xong hết. 2. khác
biệt. 3. rất, lắm
[7] thuần, lành (thú)
Tìm Hiểu: Không Thám
Một câu châm ngôn mà hầu hết ai cũng biết:
“Biết
mình biết người, trăm trận trăm thắng.”
Gián điệp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chiến tranh. Từ thời
cổ sử người ta đã áp dụng nhiều hình thức gián điệp để tìm hiểu đối phương.
Như
vậy khi một nước bắt buộc phải có chiến tranh thì trước hết phải biết địch như
thế nào. Nước ấy văn hóa tập quán ra sao? Dân ít hay nhiều? Lương thực trong nước
có nhiều hay hạn hẹp? Trình độ văn minh và khả năng chế tạo vũ khí ra sao? Tinh
thần dân chúng đối với lớp lãnh đạo có hay không có thiện cảm?
Khi
ra đến trận mạc, người làm tướng phải biết rõ địch ở đâu, bao nhiêu quân? Họ di
chuỷển ra sao,? Vũ khí họ có gì? Thời tiết, khí hậu vùng giao tranh ra sao?...Nếu
người làm tướng biết tất cả các việc này thì họ có thể tạo ra một chiến thuật
thật hữu hiệu để đối phó với địch quân.
Ngày xưa thì việc gián điệp hầu hết do con người đảm nhiệm. Lẽ dĩ nhiên,
ngày ấy, người làm tướng phải biết rằng, ngồi từ trên cao thì biết rõ trận địa
hơn và dẽ dàng điều khiển. Trong câu truyện Tam Quốc Chí ta thấy các tướng như
Khổng Minh, Tào Tháo, Chu Du… cứ ngồi trên mặt thành vãy cờ hiệu để các đoàn
quân tiến lui theo đúng kế hoạch. Như vậy càng có cao độ thì càng dễ biết tình
trạng địch quân. Nhưng khi trình độ văn minh đã cao thì con người lại nghĩ ra
các phương tiện để tìm hiểu đối phương. Chúng ta hãy tìm hiểu xem các phương
tiện gián diệp từ trên cao.
I-
KHI NÀO CON NGƯỜI
NGHĨ TỚI VIỆC DÙNG HÌNH ẢNH TỪ KHÔNG TRUNG ÁP DỤNG VÀO TRẬN ĐỊA?
Trong chiến tranh giữa Pháp và vương
quốc Prussia (Áo) từ 19 tháng 7, 1870 – 10 tháng 5, 1871 con người đã biết dùng
bong bóng để nghiên cứu dịch quân. Pruzssia là một vương quốc rộng lớn từ đông
nước Pháp lan sang Nga ngày nay.
Năm 1783, anh em Montgolfier- người Pháp là con người đầu thực sự ngồi
trên kinh khí cầu bay đến cao độ 500 ft. Kể từ đó , người Pháp chú tâm nghiên
cứu áp dụng cho quân đội. Sau cuộc cách mạng 1879 ở Pháp, Napoléon đã đem quân
đánh khắp Âu Châu. Trong các trận chiến này các sử gia đã ghi nhận rằng ông là
người đã đem kinh khí cầu để tìm hiểu đối phương.
Hình vẽ cho thấy quân đội Pháp đã dùng bong bóng
bay để tìm hiểu đối phương
Dù rằng, trên thực tế, các sử gia công nhận người Âu Châu, đăc biệt là
Pháp đã áp dụng việc không ảnh để do thám, nhưng theo ông Kim Dung thì Quách
Tỉnh khi theo Thành Cát Tư Hãn đánh các nước ở Á Rập đã dùng diều vải để nằm
bay lên cao đánh địch…(Người Hoa rất nhiều tưởng tượng).
kinh khí cầu
Sau đó, máy chụp hình được phát minh thì người ta lại nghĩ tới việc chụp
hình từ các kinh khí cầu không người điều kiển hay từ các diều vải lớn. Các bức
không ảnh đã xuất hiện từ năm 1860 và bức không ảnh nổi tiếng, chụp từ diều vải
là bức hình chụp Labruguière chụp năm 1880, của Arthur Batut.
Labruguière chụp năm 1880 từ diều
Năm 1896, Alfred Nobel, người mà ai cũng biết qua giải thưởng Nobel, đã
phát minh ra việc đem máy ảnh gắn vào một hỏa tiễn chụp hình quang cảnh của
Thụy Điển. Đến năm 1891, Ludwig Rahrmann nộp bằng phát minh chụp hình từ một
hỏa tiễn bắn cầu vòng. Sau đó, Alfred Maul (1864, - 1941), một kỹ sư người Đức, đem việc này áp dụng cho quân đội Áo (Austria) rồi
thí nghiệm trong tranh chiến giữa Bảo (Bulgaria)- Thổ Nhĩ Kỳ (Turky).
Đầu thế kỷ 20, Julius Neubronner, một người Đức khác
thí nghiệm cài một máy hình nhỏ trên một con bồ câu để chụp hình
Bồ
câu
và máy chụp hình
Julius
Neubronner và con bồ câu
Năm ngày 17 tháng 12, 1903, hai anh em ông Wright, người Mỹ, thành công
trong việc ngồi trên một bộ máy và bay được. Để rồi từ đó ta biết đến danh từ “Máy
Bay” thì con người lại nghĩ dùng nó vào chiến trận bằng cách ném thuốc nổ, bắn
xuống địch quân và trinh thám từ trên không.
Hai anh em ông Wright
Subscribe to:
Posts (Atom)