Một đêm không ngủ ở trại tù Bình Ba
Saturday, August 31, 2013
Thursday, August 29, 2013
Đại Việt thắng Nguyên Mông? Bài 21
CHƯƠNG 03
(tt)
V/ Quay
về đông phương
A- Thôn tính Tây Hạ.
Sau khi đoàn tụ
với Subutai, và phần bình định Khwarezm cũng xong, Thành Cát Tư Hãn muốn quay
về lại hỏi tội Tây Hạ đã khước từ việc đem quân đánh Khwarezm. Một số tài liệu
khác còn cho biết, khi quân Mông đang đánh Khwarezm, thì Tây Hạ liên kết với
Kim làm thành một liên minh chống lại Thành Cát Tư Hãn. Đó là nguyên nhân thứ
hai mà ông đã quyết định quay về phương đông. Theo quyển “Genghis Khan &
the Mongol Conquests 1190-1400.” thì Thành Cát Tư Hãn muốn băng qua Ấn Độ,
nhưng thấy địa thế nhiều sông sâu, rừng rậm, núi cao nên lại quay ngược lên
hướng bắc Afganistan rồi về. Một quyết định sáng suốt khi chưa nắm vững địa
thế.
Quân Mông đánh
nhau với Tây Hạ chiến thắng và chiếm nhiều nơi, tuy nhiên quân Tây Hạ không
chịu đầu hàng. Đặc biệt tướng Tây Hạ Mã Diên Long cương quyết tử thủ thành
Deshun, nhưng khi vị tướng này tử trận thì quân Mông chiếm được thành. Lúc đang
vây kinh đô Tây Hạ thì Thành Cát Tư Hãn qua đời năm 1227. Theo History Channel,
thì Thành Cát Tư Hãn chết trên đường về Tây Hạ. Tuy nhiên, các người con của
ông cũng hoàn tất nhiệm vụ làm nước này bị diệt vong từ năm ấy, và Tây Hạ tồn
tại gần 200 năm.
B- Thôn tính Kim
Sau khi được hội
đồng Kuriltai bầu làm đại hãn, Őgedei (Oa Khoát Đài)
lấy Trung Nguyên làm trọng điểm, mở các cuộc tấn công diệt Kim. Trong đợt tấn
công vào Kim lần này, Mông Cổ đã nếm mùi vũ khí mới: thuốc nổ đặt trong một bao
bằng sắt, và được đốt bằng ngòi, ấy chính là hình thức nửa pháo nửa bom. Các
quả bom này được đặt lên súng bắn đá. Toán pháo thủ kéo cung dương lên. Khi
cung đã dương tột độ, một người chạy lại châm ngòi, rồi chạy ra xa. Trong khi
ấy, toán pháo thủ buông dây để quả bom bay đến phía địch.
Theo sử gia
Javaini ghi lại chuyện về quả bom có đoạn viết: Một tiếng nổ thật lớn, như tiếng sét, vang đi hàng trăm lí. Cây cối bị
đốt cháy hay rạt xuống trong một phạm vi hơn nửa mẫu vì sức nóng. Khi nó đập
vào thì dù là áo giáp sắt cũng bị xuyên thủng. Ai mà bị bắn không bị thương bởi
mảnh vỡ thì cũng bị đốt cháy (There were a great explosion, the noise
whereof was like the thunder, audible for more than a hundred li, and
vegetation was scorched and blasted by heat over an area of more than half a
mou. When hit, even armour was quiet pierced through. Those who were not
wounded by fragments were burnt to death by explosions.[1].
Tuy nhiên, quân Kim cũng không chặn nổi bước tiến của quân Mông.
Năm 1232, sau
khi thanh toán tất cả các thành miền bắc, quân Mông quay xuống thành Khai Phong
kinh đô mới của Kim. Quân Mông bây giờ được đặt dưới quyền chỉ huy của hổ tướng
Subutai. Khai Phong nằm ở bờ nam sông Hoàng Hà (nay thuộc Hà Nam). Thời Đông
Châu đây là Biện Lương kinh đô nước Ngụy. Thời Tống, để tránh bị Kim và Tây Hạ
quấy phá đã chọn đây làm kinh đô vì có sông Hoàng Hà làm chướng ngại vật. Sau
khi bị uy hiếp bởi người Kim, nhà Tống mới dời đô về Hàng Châu.
Khi tin Mông Cổ
đến Khai Phong, thì ai nấy đều mất hồn, vì không ngờ họ đã đánh tan các đạo
binh hàng đầu của Kim ở vùng núi, khi tuyết đóng đến đầu gối.
Để nâng cao tinh
thần binh sĩ, chính hoàng đế Kim là Kim Ai Tông đi thanh sát tường thành khi
quân Mông đang tấn công. Tuy quân Mông không có bom nổ như quân Kim, nhưng có
hàng hà sa số cần bắn đá phóng ra các cục đá to như nửa cái cối xay gạo[2].
Trong quyển
“Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400”, trang33, Stephen Turnbull
có ghi lại đoạn mà sử gia Javaini đã viết và được dịch sang tiếng Anh: Quân Mông tăng cường oanh tạc thành phố và
đá bay vào như mưa rào. Đội pháo bảo vệ trở nên hoang mang cực độ, lớp thì bị
nghiền lớp thì bị giã nát [The northern army (Mongol) intensified the
bombardment of the city and stones flew like rain showers. The crews (of the
city’s own artillery) were put in terrible confusion and were partly crushed,
partly pounded.]
Nhưng quân Kim
cũng chống trả kịch liệt với bom sắt. Bài trên viết tiếp: “Các cục nặng của thành mà người ta gọi là Lôi Động Thiên Cung trả lời. Bất kì nơi nào của lính Mông mà bom
bắn trúng, lửa bộc phát đốt người cháy như than.” [The heavy pieces in the
city- they were called Heaven shaking
thunder replied. Wherever the northern army was hit fires started that
burned many people to cinders]
Trước sự kháng
cự với các vũ khí trên, quân Mông phải rút về phía xa để tìm phương pháp khác.
Và rồi biện pháp mới đưa ra. Để tránh các bom trên quân Mông lấy kiên bằng da
che lên rồi xông vào tường thành tìm các nơi tường thành bị đá bắn vỡ chui vào
đó nấp. Phản pháo lại quân Kim lại treo bom vào một sợi xích, rồi hạ bom từ từ
vào chỗ trú ẩn của lính Mông. Bom phát nổ thì kiên da hay người không còn một
dấu vết.
Một vũ khí khác
của lính Kim là giáo lửa. Để làm giáo lửa, họ cột một mũi giáo vào một thân tre
đã đục thông các mắt. Như vậy là họ có một cán giáo rỗng ruột. Họ nhét thuốc
súng vào cán giáo, rồi đốt bằng một bùi nhùi lửa đeo cạnh hông. Khi thuốc súng
cháy họ ném giáo lửa về phía địch quân. Sức ném hợp với sức thuốc súng cháy làm
giáo đi xa hơn sức người nhiều và mũi giáo cùng lửa của giáo phát nổ làm người
bị thương hay tử vong nhiều hơn.
Bom sắt và giáo
lửa là hai vũ mà lính Mông rất sợ.
Trong “Lịch Sử
Trung Hoa” của Nguyễn Hiến Lê có đoạn nói đến quân Mông nhờ Tống diệt Kim như
sau:
“Oa Hoạt Đài (Ogodei) đem quân đánh Kim, vây
Biện Kinh 16 ngày không lấy được. Mông Cổ sai sứ vào xin Tống (vua Lí Tôn) hợp
binh đánh Kim. Vua tôi nhà Tống muốn thừa diệp đó, diệt Kim để rửa nhục, mà
quên rằng trước kia Tống giúp Kim diệt Liêu, sau bị Kim phản, trở lại hại Tống.
Lần này cũng vậy, Tống giúp Mông Cổ diệt Kim (vua Kim phải tự ải - có sách nói
nhảy vào lửa chết năm 1234) rồi cũng bị Mông Cổ phản trở lại hại Tống.”
Dù vũ khí chiếm
thượng phong, nhưng tinh thần của binh dân thành Khai Phong lại suy đồi. Theo
Stephen Turnbull viết trong quyển nói về Nguyên Mông, lúc ấy hoàng đế Kim bắt
lính tất cả mọi người kể cả các thư sinh yếu đuối. Cũng theo quyển ấy thì các
thư sinh này chống đối vì đem họ vào chỗ nguy hiểm.
Mùa đông năm
1233, hoàng đế Kim Ai Tông bỏ trốn khỏi thành Khai Phong, dù là ông vẫn còn cơ
hội chống đỡ. Ông này đã có một vết tì là đã bỏ trốn khỏi Trung Đô ngày trước.
Các tướng giữ thành thấy vậy mở cửa thành đầu hàng để tránh các thảm họa như
các nơi khác. Quả tình Mông Cổ cũng sát hại một số, nhưng không tiêu diệt hết dân như
các nơi đã từng chống đối đến khi vỡ thành. Sau đó họ đuổi theo Kim Ai Tông, và
ông này đã tự tử chết khi cùng đường năm 1234. Một quốc gia nữa bị xóa tên trên
bản đồ thế giới.
[1] Trích từ
trang 33- Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400.
Không biết tác giả nghe ai tả lại mà ghi như trên. Đây
phải là bom tiên tiến của đầu thế kỉ thứ XX mới có.
[2] Tính
theo cái cối mà người Hoa, Việt hay dùng để giã gạo, xay lúa thì viên đá này có
thể có đường kính đến 60, 70 cm.
Wednesday, August 28, 2013
Tuesday, August 27, 2013
Đại Việt thắng Nguyên Mông? Bài 20
CHƯƠNG 03
(tt)
IV/ Cuộc
hành quân Jebe/Subutai (tt)
4. Kết quả
Trận đánh này, 6
lãnh chúa và bẩy mươi nhà quí tộc liên quân Nga đã thiệt mạng. Về số quân tử trận
thì cũng có nhiều nguồn tin khác nhau. Theo Nikonian Chronicle và Richard
Gabriel trong quyển: “Subutai The Valiant: Genghis Khan’s Greatest General” thì
nói liên quân Nga bị thiệt hại 60000 người. Nhưng theo The Primary Chronicle
thì con số ấy là 10000 người.[1]
Theo nhà sử học
John Fennell chuyên về Nga thời phôi thai thì nói con số về lính tham chiến
cũng như thương vong quá mù mờ. Nhưng với con số nào thì con số thiệt hại của
liên quân ít nhất là 50%.
Sau trận đánh
lịch sử này, quân Mông Cổ tiếp tục quay về đại quân của Thành Cát Tư Hãn. Khi
vượt sông Volga thì bị phục kích bởi các quân Volga Bulgaria, quân của iltäbär (vua) Ghabdulla Chelbir của xứ
Bulgar, cộng thêm quân của inäzors
(hoàng tử) Mordvin là Puresh và Purgaz gần Samara Bend làm thiệt hại
quân Mông. Tuy nhiên, Mông cổ không đánh trả và chỉ lo rút lui.
Theo “Mongol: A
Country Study” thì Jebe bị bệnh chết đường về ở phía bắc biển Caspian. Sau ba
năm vượt trên 4000 miles (6,500 km- có sách nói trên 5000 mile hay trên 8000
km), Subutai đã đem 2 tjumen về họp với đại quân. Nhưng theo “Subutai The
Valiant: Genghis Khan’s Greatest General” Jebe chết sau khi gặp được đại quân.
Russia chronicler
viết: Chúng tôi chẳng biết đám đó từ đâu
tới, hay chúng lại trốn nơi nao; Chúa biết nơi nào tìm ra họ để trừ những tội
của chúng tôi. [We know not whence
they come, nor where they hid themselves again; God knows whence he fetched
them against us for our sins.][2] Theo
sử gia Robert Marshall thì cuộc hành quân của Subutai đã đi vào lịch sử như là
một cuộc hành quân vĩ đại nhất trong lịch sử kị binh của thế giới. Còn sử gia Charles Halperin thì cho rằng sự
tàn phá của bộ máy chiến tranh Mông Cổ đã làm lu mờ tất cả những gì mà người
Nga đã thấy từ trước.
[1]
Theo quyển “Cuộc kháng chiến chống xâm
lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của ông Hà Văn Tấn và bà Phạm Thị Tâm, trang
318, có ghi lại cuộc viễn chinh của Jebe và Subutai như sau:
“Khi quân MC từ trung Á tiến đánh châu Âu, liên
quân các công quốc Nga, Xu-dơ-đan, Xmo-len, Ki-ép, Tréc-ni-nốp đã chặn giặc ở
sông Kan-la, Nhưng ngay trong giờ phút nguy cấp, các công vương đã bất hòa nhau
và chiến đấu đơn độc….”
[2] Trich ở
trang 49, quyển “A History of Russia”
của Jesse D. Clarkson.
Thơ bạn đọc:
Một bạn đọc trên blog này và cũng là bạn dọc
trong mục thơ tiếng Việt trên diễn đàn Viện Việt Học có tên Nắng Khuya đã cho
phép tôi đăng bài thơ của tác giả lên blog của Cholach. Tôi xin giới thiệu với
bạn đọc.
Anh đi rồi
Anh đi rồi,
Em cố gượng cười che
nước mắt.
Anh đi rồi, hiu hắt nỗi
đau
Thêm lần chia cắt đời
nhau.
Sơn khê mấy bận, tình
đau vẫn còn.
Nang Khuya-
Monday, August 26, 2013
Khuê tình
閨情- Khuê tình
流水去絕國。
Lưu thủy
khứ tuyệt quốc,
浮雲辭故關。
浮雲辭故關。
Phù vân
từ cố quan.
水或戀前浦。
水或戀前浦。
Thủy hoặc
luyến tiền phố,
雲猶歸舊山。
雲猶歸舊山。
Vân do
quy cựu san
恨君流沙去。
恨君流沙去。
Hận quân
Lưu Sa khứ
棄妾漁陽間。
棄妾漁陽間。
Khí thiếp
Ngư Dương gian.
玉箸夜垂流。
玉箸夜垂流。
Ngọc trợ
dạ thùy lưu,
雙雙落朱顏。
雙雙落朱顏。
Song song
lạc châu nhan.
黃鳥坐相悲。
黃鳥坐相悲。
Hoàng
điểu tọa tương bi.
綠楊誰更攀。
綠楊誰更攀。
Lục dương
thùy cánh phan?
織錦心草草,。
織錦心草草,。
Chức cẩm
tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。
挑燈淚斑斑。
Khiêu
đăng lệ ban ban.
窺鏡不自識.
窺鏡不自識.
Khuy kính
bất tự thức,
況乃狂夫還。
況乃狂夫還。
Huống nãi
cuồng phu hoàn.
Lý Bạch
--Dịch nghĩa:--
Tình trong khuê phòng
Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh?
Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẩm chứa chan!
Soi gương không còn nhận ra mình nữa,
Huống chi lúc chàng trở về.
Lý Bạch
--Dịch nghĩa:--
Tình trong khuê phòng
Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh?
Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẩm chứa chan!
Soi gương không còn nhận ra mình nữa,
Huống chi lúc chàng trở về.
Các bài thơ dịch:
Nước trôi mãi về nơi xa vắng ,
Biên thùy xưa mây trắng lưa thưa.
Nước còn lưu luyến bến xưa,
Mây về núi cũ tình chưa xóa nhòa.
Hận chàng đi Lưu Sa lòng chạnh,
Thiếp Ngư Dương cô quạnh sầu thương .
Châu sa đũa ngọc đêm trường ,
Hai dòng lệ thắm vương vương má hồng .
Tiếng oanh hót khiến lòng xao xuyến,
Liễu tơ xanh chẳng luyến vin cành.
Vẩn vơ , gấm dệt chẳng thành,
Khêu đèn , thổn thức , long lanh lệ tình .
Soi gương không nhận ra mình,
Chàng về có lẽ càng nhìn càng đau
MaiLộc--
ĐỢI CHÀNG
Ôi nước lan man xa tít
Mây ngoài quan ải bơ vơ
Nước ngoái nhìn mãi bến bờ
Mây còn tương tư núi xưa
Chàng dứt áo ra quan ải
Có còn nghĩ thiếp bơ vơ
Đêm đêm lệ rơi không dứt
Chảy tràn trên mặt hoa tàn
Chim ơi thương ta chăng chớ
Buồn chuyền cành liễu khóc than
Cầm thoi tay đưa rời rã
Sợi rối sợi đứt khôn hàn
Gương ơi sao mi hiểm thế
Lòng ta thảng thốt đợi chàng
C.D.M.
Ôi nước lan man xa tít
Mây ngoài quan ải bơ vơ
Nước ngoái nhìn mãi bến bờ
Mây còn tương tư núi xưa
Chàng dứt áo ra quan ải
Có còn nghĩ thiếp bơ vơ
Đêm đêm lệ rơi không dứt
Chảy tràn trên mặt hoa tàn
Chim ơi thương ta chăng chớ
Buồn chuyền cành liễu khóc than
Cầm thoi tay đưa rời rã
Sợi rối sợi đứt khôn hàn
Gương ơi sao mi hiểm thế
Lòng ta thảng thốt đợi chàng
C.D.M.
Khuê Tình
Nước chảy đi cuối xứ
Mây trôi từ ải xưa
Nước chẳng quên bến cũ
Mây sẽ lại non nhà
Giận chàng đến Lưu Sa
Ngư Dương bỏ thiếp lại
Hằng đêm lệ tuôn dài
Dung nhan dần héo úa
Than thở cùng chim oanh
Liễu biếc ai vin cành
Dệt gấm buồn mang mang
Thắp nến lệ hàng hàng
Soi gương tìm dáng cũ
Chàng về thiếp chẳng an.
Quên Đi
Nước chảy đi cuối xứ
Mây trôi từ ải xưa
Nước chẳng quên bến cũ
Mây sẽ lại non nhà
Giận chàng đến Lưu Sa
Ngư Dương bỏ thiếp lại
Hằng đêm lệ tuôn dài
Dung nhan dần héo úa
Than thở cùng chim oanh
Liễu biếc ai vin cành
Dệt gấm buồn mang mang
Thắp nến lệ hàng hàng
Soi gương tìm dáng cũ
Chàng về thiếp chẳng an.
Quên Đi
Tình đàn bà
Dòng nước trôi cuối xứ,
Đám mây rời cố quan.
Nước còn yêu nguồn cũ
Mây cũng về cựu san.
Lưu Sa, giận chàng đến;
Ngư Dương, mặc thiếp hàn.
Đêm đêm, lệ ngọc chảy
Hàng hàng, mặt châu lan.
Chim vàng, cũng buồn đậu;
Dương xanh, đâu mơn man.
Gấm dệt, lòng rối rắm,
Đèn khêu, lệ hoen tràn.
Soi gương, ta đâu nhỉ ?
Chàng về, luống mừng
ran.
Danh Hữu dịch
Nước trôi trôi biền biệt,
Mây bay khuất ải quan.
Nước còn mơ bến cũ,
Mây bay khuất ải quan.
Nước còn mơ bến cũ,
Mây vẫn
nhớ núi ngàn.
Hận chàng Lưu Sa biệt,
Bỏ thiếp giữa Ngư Dương.
Đêm nhỏ hai hàng lệ,
Song song ướt má hường.
Oanh vàng buồn thôi hót,
Liễu xanh chẳng kẻ màng.
Khung gấm lòng lơ đễnh,
Chong đèn lệ chứa chan.
Soi gương không nhận bóng,
Huống chi anh chồng gàn !!!
Hận chàng Lưu Sa biệt,
Bỏ thiếp giữa Ngư Dương.
Đêm nhỏ hai hàng lệ,
Song song ướt má hường.
Oanh vàng buồn thôi hót,
Liễu xanh chẳng kẻ màng.
Khung gấm lòng lơ đễnh,
Chong đèn lệ chứa chan.
Soi gương không nhận bóng,
Huống chi anh chồng gàn !!!
Đỗ Chiêu Đức
Tình buồn chốn phòng khuê
Nước lạnh lùng, trôi về bất
tận.
Mây hững hờ che lấp ải quan.
Bến cũ, nước vẫn lan man.
Núi xưa, ấp ủ mây ngàn gần xa.
Hận Lưu Sa, chàng ra hoang
vắng.
Đũa ngọc đêm chảy dòng dòng.
Hai hàng lệ thắm má hồng, ai
đang?
Đem đau thương, chim vàng
chia sẻ.
Cành dương xanh, ai bẻ cùng
ai?
Dệt gấm, lòng mãi u hoài.
Khêu đèn, lệ lại chảy dài đẫm
khăn.
Soi gương thấy, da nhăn đã
khác.
Huống chi ngày chàng vác cung
về.
VHKT
Sunday, August 25, 2013
Xin lỗi
Chân thành xin lỗi bạn đọc.
Tôi hứa đăng các bài thơ dịch Khuê Tình với một số
bạn. Nhưng vì có chuyện bất ngờ là một số cựu học sinh từ Canada, Sacramento lại
thăm nên mấy ngày liên liếp tiệc tùng đến nửa đem mới về nhà. Do đó chưa đăng
kịp các bài thơ ấy.
VHKT
Không thám bài chót
2. Liên Xô.
Bản chất của Cộng Sản là bí mật không riêng gì về quân sự và nhất là gián
điệp. Nay ta biết họ có một chương trình phóng vệ tinh gián điệp với tên Zenit
(Zenit là tiếng Nga mà Anh văn là zenith: có nghĩa là điểm cao nhất trên đầu,
cực điểm.)
Sputnik 1
Kể từ năm 1956, chính quyền Sô Viết đã ra một quyết định bí mật để phát
triển chương trình vệ tinh gián điệp. Khoảng 1958, thì nhà bác học lừng danh
của Liên Xô: Sergei Korolev, bắt đầu thực hiện kế hoạch. Korolev là cha đẻ của
Sputnik 1.
Tuy là nước phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của con người, nhưng lại là
nước thứ hai dùng vệ tinh để thăm dò đối phương. Mãi tới ngày 11, tháng 12, năm
1961 họ mới có thể phóng vệ tinh gián điệp đầu tiên. Tuy nhiên, “Mưu sự tại
nhân, thành sự tại thiên”, từng thứ ba của hỏa tiễn bị hư, nên khi len gần quỹ
đạo thì bị phát nổ. Mãi tới ngày 26 tháng tư, 1962 thì họ mới thực sự có vệ
tinh gián điệp. Dù là thành công khi phóng, nhưng 3 ngày sau lúc trở về thì
hình ảnh dùng không được vì định hướng sai lệch và độ phân giải các máy hình
quá tệVài lần kế tiếp lại bị thất bại với các động cơ thôi tống phát nổ. Nhưng
cuối cùng họ đã thành công thật sự ngày 28 tháng 7, 1962.
Như vây, chương trình vệ tinh gián điệp bắt đầu từ năm 1961 và chấm dứt
năm 1994. Cũng như Mỹ, Liên Xô cho công chúng biết đó là vệ tinh thuộc chương
trình Kosmos (thám hiểm Vũ Trụ). Trong thời gian 33 năm này, Liên Xô đã phóng
lên không gian trên 500 vệ tinh. Với con số ấy, đây là con số lớn nhất cho bất
kỳ chương trình về vệ tinh nào trên thế giới.
Khi Sputnik-1 hay các vệ tinh thuộc chương trình Vostok được phóng lên
thì vệ tinh là một hình cầu. Các vệ tinh gián điệp khác của Liên Xô cũng có hình
dáng đơn sơ như vậy. Các quả cầu này có đường kính trên 2 m và nặng 2400 kg.
Hình vệ tinh đặt trong phi thuyền.
Cả phần này sẽ bay trong quỹ đạo và có chiều dài khoảng 5 m, nặng tổng
cộng từ 4600 đến 6300 kg.
Vệ tinh được đặt trong mũi của hỏa tiễn. Lúc đầu các hỏa tiễn Vostok. Sau
đó, các hỏa tiễn Voskhosd và cuối cùng là Soyuz được dùng để phóng. Căn cứ
phóng vệ tinh đầu tiên là căn cứ chính đã từng phóng các vệ tinh đầu tiên của
loài người: Baikonur Cosmodrome, nằm trong sa mạc hoang vu của nước Cộng Hòa
Kazakhstan. Sau này, căn cứ Plesetsk Cosmodrome, cách Moskova 800 km về hướng bắc là nơi phóng
chính thức.
Hầu hết các vệ tinh được đặt trong quỹ đạo hình ellips có cận điểm 200 km
và viễn điểm từ 250 đến 350 km. Nếu đem so với các vệ tinh của Mỹ thì các quỹ
đạo này cao hơn nhiều. Với độ cao quá lớn, các hình chụp bao phủ một diện tích
hình vuông mỗi bề 60 km2 và có độ phan giải từ 5 (16 ft) đến 7 m (23
ft). Nếu đem so với các hình đầu của Mỹ là dưới 1 m hay 3 ft thì nó lớn gấp 5
đến gần 8 lần. Một vệ tinh có 3 máy chụp hình, mỗi máy chứa 1500 bức hình. Thời
gian hoạt động của vệ tinh trung bình từ 8 đến 15 ngày (khi hết film); trong
khi ấy các vệ tinh gián điệp của Mỹ có thời gian ngắn nhất là ba tháng và lâu
nhất trên 9 tháng. Vì lý do ấy, mà Liên Xô đã liên tiếp phóng lên một số lượng
lớn vệ tinh để bù vào.
Một điểm khác biệt với các vệ tinh trong chương trình Corona của Mỹ là hệ
thống máy chụp hình và cách trở về trái đất. Cách lấy lại film đã chụp là cả
quả cầu cùng ba máy ảnh rơi trở vế trái đất. Với phương án làm việc ta thấy
ngay cách thiết kế ít cầu kì nhưng trọng tải của cả vệ tinh tương đối lớn.
Các vệ tinh Zenit được đặt tên
Zenit 2, Zenit 2M, Zenit 4, Zenit 4 MK, Zenit 4 MKM…Zenit 8… mỗi khi được cải
tiến và tùy theo hệ thống hỏa tiễn phóng. Nói tóm lại, các số sau càng lớn thì
ngày phóng càng gần đây hơn. Lẽ dĩ nhiên, các hình chụp càng về sau thì càng
tốt với dộ phân giải nhỏ. Liên Xô không đưa ra con số về độ phân giải, nhưng
các nhà chuyên môn ứơc lượng độ này phải nhỏ hơn 1 m.
Các chương trình Zenit lúc ban đầu cũng rụng tơi bời như Corona của Mỹ.
Bài viết này, chỉ dựa vào các tài liệu đã được giải mật. Còn những vệ
tinh hiện thời thì chẳng thể nào biết, trừ phi chính người này là điệp viên
chuyên trách các vấn đề liên hệ. Và nếu là người này thì không thể viết các bài
tương tự, vì viết sẽ Ủ TỜ.
Wednesday, August 21, 2013
Những bài thơ về ở tù 7
Một ngày, chúng tôi bị chuyễn từ trại tù Cựu Chiến
Binh, Vũng Tàu đi đến trại Bính Ba, thuộc Bà Rịa. Chiều chúng tôi tới trại, tất
cả đám tập trung vò trại bầu người đại diện. Tôi đau bụng nên xuống một chỗ
vắng làm riệc riêng. Sau đó, tôi ra một thác nước nhỏ ven trại. Nhìn trời nước,
tôi làm bài thơ sau.
Xin bấm vào hình, sẽ thấy rõ hơn.
Tuesday, August 20, 2013
Đại Việt thắng Nguyên Mông? Bài 19
CHƯƠNG 03
(tt)
IV/ Cuộc
hành quân Jebe/Subutai (tt)
B- Liên minh các thành trì của Nga.
Ngay khi nghe
tin liên hiệp Nga đang chuẩn bị tấn công thì Mông Cổ cho quân tiến sang hướng
đông để tránh. Đó là đường đi duy nhất mà họ có thể thi hành lúc ấy và cũng là
đường họ về với đại quân của Thành Cát Tư Hãn. Họ đang mong đợi viện binh do
người con cả của Thành Cát Tư Hãn đang ở vùng Kazakstan. Tuy nhiên, Jochi lúc
ấy đã li khai với hoàng tộc và đang bị bệnh (Ông này chết năm 1227 trước Thành
Cát Tư Hãn vài tháng, và người ta ngờ rằng Thành cát Tư Hãn hay Chagatai âm mưu hạ độc ). Vì vậy viện quân Mông Cổ không bao giờ tới với Jebe và Subutai.
Lâu đài này ở Napa valley-California. (Phía bắc San Francisco)
Nơi này là một hãng rựơu nổi tiếng.
Ngừơi chủ đã lập lại kiểu một lâu đài thời trung cổ ở Ý Đại Lợi.
(Ảnh VHKT)
Lâu đài Leeds xứ Kent
của Anh Quốc
Khi hội họp để
bàn cách bao vây quân Mông Cổ, đang đóng gần sông Kalka, thì mỗi lãnh chúa bàn
một cách, chẳng ai nghe ai, vì không có một thủ lãnh thật sự. Cuối cùng cũng có
một thỏa hiệp, quân Galich, và Volhynian cùng vài lãnh chúa khác đi về phương
nam, trong khi quân Kiev, Chernigov và một hai lãnh chúa nữa thì tiến về phía
bắc. Vì Cuman đã có kinh nghiệm giao chiến với Mông Cổ rồi nên có nhiệm vụ tấn
công thẳng từ hướng tây sang.
Sông Kalka hiện
nay không còn vết tích, nhưng người ta đoán đó chính là sông Kalchik chảy trên
địa phận Donetsk
Oblast, của Ukrain ngày nay; sông này
đổ vào biển Azov[1].
Khi nghe tin này
Jebe cử một đoàn gồm 10 sứ giả sang thương thuyết với Mstislav Romanovich III
chỉ huy cánh quân Kiev. Họ báo rằng Mông Cổ không có thù oán gì với người Nga
mà chỉ muốn đánh Cuman. Họ còn thêm rằng Mông Cổ đang đi về hướng đông tránh xa
các thành phố của người Nga. Mstislav của Kiev, đem hành quyết đám sứ giả này.
Jebe lại cho một toán Mông Cổ thứ hai sang trại quân Kiev và tuyên chiến với
họ.
Bản đồ hành quân của lien
hiệp Nga
Lúc tiến về
phương đông, cánh quân Galich của Mstislav the Bold gặp một toán Mông Cổ độ
1000 quân do thiên phu trưởng Gemyabeck chỉ huy. Theo một số tài liệu nói đó là
quân Mông Cổ bị lạc, trong khi một số khác nói đó là đám quân đoạn hậu. Lính
Galich không ngờ quân Mông Cổ chỉ trang bị với cung tên cùng dây thừng để bắt
thú. Quân Galich đã đánh đám này bỏ chạy dễ dàng, nên càng ngày càng tỏ ý kinh
thường địch quân. Riêng Gemyabeck (Hamabek) thì bị bắt sống, rồi cũng bị hành
quyết.
Trong khi đó
Daniil Romanovich cũng dẫn một toán thám sát đụng độ với một toán quân Mông Cổ
khác và cũng đánh bại toán này.
Khi quân các
cánh khép chặt vòng vây để chuẩn bị tấn công, thì các lãnh chúa lại cãi vả nhau
về vấn đề chiến thuật. Kết quả lại tự ý hành động không theo cùng thời gian
hoạt động, nên đến sông Kalka không nhịp nhàng. Koten dẫn đoàn quân Cuman và
Daniil dẫn lính Volhynia đến sông Kalka đầu tiên. Quân Galich do Mstislav the
bold chỉ huy cùng Chernigov do Mstislav điều kiển đến kế tiếp. Quân đội Kiev
thì thụt lui mãi tận phía sau.
Đội nỏ của Cuman
và Volhynia, được hỗ trợ bởi kị binh
nặng tỏ ra rất hiệu nghiệm làm quân Mông Cổ thất thế. Nhưng đại quân chưa tới,
nên quân của Cuman và Volhynia không
thanh toán được chiến trường. Lập tức Sabutai cho áp dụng chiến thuật giả thua.
Ông ta cho lệnh kị binh Mông Cổ cứ chạy về phía đông. Liên quân Nga thấy thắng
thế đuổi theo, nhưng dĩ nhiên cũng rời rạc, không liên kết thành một toán để
yểm trợ nhau.
Sau 9 ngày đuổi
bắt, toán khinh binh của đám người Polovtsian (Cumans) và Volhynian đã bỏ xa
toán vũ khí nặng yểm trợ. Quân Mông Cổ rút qua cầu để sang bờ đông; đám khinh
binh của liên quân vẫn đuổi theo. Đây là giờ phút của Subutai, ông ta cho toán
quân bài chủ yếu trong trận xung công. Đến lúc ấy, toán binh Cumans thấy phía
trước có sương khói che phủ, rồi đám lính Mông Cổ với cung tên biến mất sau màn
khói ấy. Khi vừa đến nơi toán lính Cumans thấy lù lù trong khói toán Mông Cổ
trở lại. Nhưng không phải toán kị nhẹ mà là toán kị nặng. Toán kị nặng này tấn
công toán khinh binh của Cuman chưa sắp đội ngũ, và quá gần nên cung tên hết
hiệu nghiệm. Đám này chống không lại, bị chết rất nhiều.
Đám còn lại phải
bỏ chạy ngược về thì gặp quân khinh binh của Volhynian và Kursk. Hai đoàn quân
này phải tránh đường cho quân Cuman tháo lui. Jebe và Subutai ra lệnh cho hai
tướng Tsusyr và Teshy đem khinh binh đánh vào sườn đám quân vô trật tự trên.
Thế rồi cả ba đám của liên quân cùng tháo lui về phía cầu. Lúc gần đến cầu, thì
đụng ngay đoàn quân của Ghernigov và Galich đang trong tiến trình qua sông và
không biết trận đánh đã khởi động mà bên thượng phong là Mông Cổ. Liên quân lại
càng trong tình trạng hỗn loạn kẻ tới người lùi, trong khi ba mặt bị giáp công.
Trận đánh này
làm thủ lãnh Mstislav của Chernigov tử trận rồi cả đoàn quân không chủ này bỏ
chạy về hướng tây. Quân Galich cố duy trì trận đánh, nhưng quân Mông Cổ bắn
ngựa của đoàn quân này, ngựa chết thì các hiệp sĩ của Galich trở thành bộ binh,
mà phải đeo các vũ khí nặng nên chống không nổi với kị binh Mông Cổ. Mastislav
the bold đành dẫn quân chạy về sông Dnieper. Quân Mông Cổ đuổi theo tấn công
từng đợt rồi biến mất cho đến cả trăm km. Khi Mstislav the Bold vượt được sông
Dnieper, ông cho lệnh phá hủy tất cả thuyền bè mà ông tìm thấy. Tuy nhiên người
hùng “Can Đảm” này nhận ra rằng ông là người duy nhất bỏ chạy qua con sông ấy.
Tuy vậy, Mông Cổ không qua con sông mà quay lại phương đông.
Khi cánh quân
10000 người của Kiev, tiến đến gần cầu thì chứng kiến cảnh Chenigov tháo chạy.
Mstislav Romanovich ra lệnh cho quân rút lui về trại quân lúc mới khởi hành ven
sông Dnieper và dùng xe vây quanh làm thành hàng phòng tuyến. Quân Kiev đánh
nhau 3 ngày thì hết nước uống. Chuyện phải đến cuối cùng cũng đến, Mstislav
Romanovich cùng các nhà quý phái Kiev bàn nhau xin hàng và xin Mông Cổ cho họ
rút lui an toàn. Mông Cổ hứa nếu Kiev hàng thì một giọt máu của các nhà quí
phái Kiev sẽ không đổ. Nhưng sau khi quân Kiev hàng, Mông Cổ tàn sát tất cả
đoàn lính này, còn Mstislav III- Romanovich cùng các nhà quí phái bị bắt, nhốt
xuống một hố sâu, lót ván bên trên. Chiều tối hôm ấy, Mông Cổ mở tiệc ăn mừng
chiến thắng, các tướng Mông Cổ ngồi trên các tấm ván che hầm. Mstislav III cùng
các nhà quí phái Kiev từ từ chết ngạt. Đây là cuộc trả thù giết sứ giả và cũng
giữ đúng lời hứa là không một giọt máu của giới quý tộc Kiev sẽ đổ.
Saturday, August 17, 2013
Tìm Hiểu Không Thám- Bài 17
1. Hoa Kỳ
b- The Gambit Program
Bên ngoài chương trình Corona, có chương trình
Gambit (bước đầu). Chương trình này bắt đầu từ năm 1964 đến năm 1984. Các vệ tinh
được đem lên quỹ đạo bằng các hỏa tiễn Titan III đưa lên không gian từ căn cứ
không quân Vandenberg California. Các vệ
tinh KH-7 và Kh-8 SExpand nặng 3 tấn này được đặt vào quỹ đạo thấp hơn Corona
(100 mile).
HK-7
Vì quỹ đạo thấp nên vệ tinh chụp hình rõ và chính
xác hơn, nhưng ngược lại thời gian hoạt động trên quỹ đạo ngắn hơn gây ra bởi
sự co sát làm phi thuỳên mất vận tốc. Thời gian hoạt động của các vệ tinh chỉ
chừng 3 tháng. Có tất cả khoảng trên 54 vệ tinh loại này đã được phóng lên.
Cách chuỷên film về mặt đất thì có hai dạng hoặc
chuyển về bằng ống đựng phim như chương trình Corona hay các máy trên vệ tinh
tự động rửa hình, scan hình rồi chuỷên hình này về trung tâm nghiên cứu. Thời
gian chụp hình rồi chưỷên về trung tâm theo cách thứ 2 tốn khoảng 20 phút.
Trong khi chuyển theo ống đựng film phải tốn từ một đến vài ngày. Đây là kết
quả của sự bỏ tiền nghiên cứu tới gần 2 tỷ đô và một thời gian 10 năm.
SExpand
Ngòai các tiện dụng trên, vệ tinh của chương trình
này còn có thể chụp được các vệ tinh khác bay quanh nó. Mục đích của công việc
này là tìm các vệ tinh gián điệp đối phương. Nhưng lắm khi nó cũng giúp ích cho
vệ tinh nước chủ nhà. Năm 1973, khi trạm không gian Skylab (Phòng thí nghiệm
trên không gian) mới được phóng lên thì bị một vẩn thạch không gian đánh trúng.
Vệ tinh này chụp được hình skylab bị hư hại. Kết quả NASA đã phóng lên một đội
sửa chữa cho tram.
SExpand 2
c- HEXAGON grogram: (Chương
trình hình lục giác)
Với các hệ thống KH-9, chương trình bắt đầu từ năm
1971 đến 1986. Mãi tới năm 2011, người ta mới biết chương trình này tồn tại
cách đó trên 2 thập kỷ. Đây là một chương trình thành công của Mỹ với 20 vụ
phóng và 19 vụ hoàn thành mỹ mãn. Hệ thống vệ tinh này được đặt tên là “Big
Bird” (Đại bàng). Cũng như hầu hết các vệ tinh do thám khác đây là hệ thống vệ
tinh do hãng Lookheed sản xuất với tổng giá trị 3 tỷ 263 triệu đô.
Với tất cả máy ảnh được cải tiến và số lượng film dự
trữ nhiều nên thời gian hoạt động kéo dài tời 276 ngày. Các vệ tinh cũ khi film
đã dùng hết thì nó kể như là vô dụng. Đó là khối sắt trên không gian.
Trong thời gian từ 1973 đến 1980, những vệ tinh này
đã chụp từng ft vuông (.093 m2) của cả thế giới trong hơn 29000 bức
hình. (vậy là tiêu rồi, mấy cái cầu cá vồ ở Việt Nam cũng có thể nhìn thấy.
Chẳng may cho ai đang ngồi ỏ đó lúc máy chụp cũng dính luôn).
d- KENNAN Program.
Đây là một hệ thống vệ tinh gián điệp tân tiến nhất
hiện nay đã được giải mật với các vệ tinh KH-11 Kennan. Vệ tinh thứ nhất được
phóng lên năm 1976 mang theo các máy cảm nhận điện tử mà khả năng làm cho các
chuyên viên có thể biết việc gì đang xẩy ra ở chục ngàn cây số cách xa. Tuy
được giải mật, nhưng các dụng cụ trên vệ tinh vẫn chưa biết được rõ ràng. Một
điều mà người ta biết đến nay là các máy chụp hình viễn vọng có trang bị các
ống kính có đường kính khoảng 2,4 m để chụp các hình mà độ phân giải chỉ còn 6
inch hay 15.24 cm.
Titan-3D của Lockheed Martin.
Trong thời gian từ 1976 đến 1990, 9 vệ tinh KH-11 được
đem lên không gian bởi các hỏa tiễn Titan-3D của
Lockheed Martin. Từ 1992 đến 2005, CIA dùng các hỏa tiễn Titan IV để phóng 5 vệ
tinh. Đến năm 2011 chiếc vệ tinh cuối cùng được đưa lên bằng Delta IV của
Boeing.
CIA đã chi tiệu tổng cộng khoảng từ 2.2 đến 3 tỷ đô
cho chương trình này.
Titan IV rocket
Delta IV của Boeing
Subscribe to:
Posts (Atom)