Sunday, March 30, 2014

Các ngôi đền-chùa nổi tiếng 14


Angkor Wat, Campuchia(tt)        

Bây giờ ta quay lại lịch sử dựng nước Khmer.

Tuy xuất thân từ Sailendra, Jayavarman II đã chống lại các đạo quân nước này để mang độc lập cho Kambujia.

Jayavarman II qua đời năm 834 và con ông là Jayavarman III.lên thay.  Jayavarman III cũng theo cha năm 877 và Indravarman I lên làm hoàng đế.

Indravarman I tiếp tục mở mang bờ cõi mà không cần chiến tranh. Đế quốc Khmer trở nên phồn thịnh nhờ vào thương mại và nông phẩm. Ông cho xây đền Preah Ko để thờ thần Shiva thuộc Ấn Độ Giáo, và làm hệ thống  dẫn thủy nhập điền. Đền này cũng nằm gần Đế Thiên- Đế Thích. Ông nhường ngôi lại cho con năm 889.

Đền Preah Ko

Theo sau đó là hoàng đế Yasovarman I, nối ngiệp cha; ông cho lập thủ đô tại Yasodharapura- thành phố đầu tiên của thời Angkor. Cũng dưới triều đại này, người Kambuja xây hồ giữ nước khổng lồ Baray Đông, dài 7 cây số rưỡi, rộng gần 2 cây số. Theo History channel thì đây là hồ giữ nước vĩ đại thứ hai cùng thời. Hồ có mục đích dùng dẫn thủy nhập điền. Nếu nước chứa đầy đủ thì có thế tưới cho 13 đến 15 ngàn mẫu ruộng. Hồ nước lớn nhất Bayay Tây được xây thời Suryavarman I, hơn 100 năm sau. Đập này 8 cây số, dài 2 cây số 2. Khi nói đến nước này thì ai nấy đều biết tới Angkor Wat nhưng hầu hết không biết đến cái vĩ đại thứ hai là các đập nước nói trên. Đây là một thiếu sót kiến thức của chúng ta về nước Cambot.

Đầu thế kỷ 10, đế quốc này chia làm hai. Jayavarman IV lập ra một quốc gia mà thủ đô là Koh Ker, khoảng 100 km  đông bắc Angkor. Phần đất còn lại do Rajendravarman II cai trị mà thủ dô vẫn là Yasodharapura từ năm 944 đến 968.

Rajendravarman II tiếp tục công trình dở dang của các tiên đế cho xây các đền thờ vùng Angkor. Một trong các công trình này là đền East Mebon, nằm trên đảo nhỏ của hồ chứa nước Đông Baray. Đồng thời ông cũng cho xây một chuỗi các đền chùa Phật giáo.

Đền East Mebon.

Theo sử Pre Rup, hoàng đế Rajendravarman II  là một người rất tài về quân sự và hiếu chiến. Thanh gươm của ông không lúc nào làkhông nhuộm máu. Người ông cứng hơn kim cương hay văn hoa hơn nữa theo kiểu Kim Dung thì ông là người kim cương bất toại thể.

Trong năm 950, một cuộc chiến tranh giữa Khmer và Chiêm Thành. Đây là cuộc va chạm đầu tiên giữa hai quốc gia này. Rajendravarman II đã đem quân sang vùng Kauthara, Nha Trang ngày nay- chiếm tháp Bà, lấy đi pho tượng vàng của nữ thần Po Nagar, vị nữ thần cai quản Kauthara. Lúc này là thời Ngô Quyền mới giành độc lập từ phương bắc, tại TQ cũng đang chia năm sẻ bảy vì loạn Ngũ Đại Thập Quốc và quân Liêu xăm lăng phương bắc.

Không biết ông là người kim cương bất toại thể thế nào, nhưng 14 năm sau khi chiếm cứ Kauthara và lấy pho tượng vàng đi thì ông qua đời, khi con ôn là hoàng tử Jayavarman V lên ngôi lúc 10 tuổi, năm 968.

Jayavarman V vì quá nhỏ nên sinh ra loạn tiếm quyền, các quan thi nhau lập thế dựa vào các hoàng tử, công chúa khác.

Jayavarman V theo học Yajnavaraha, chú ông, và là một người theo đạo Phật, thông thiên văn, đạt địa lý. Năm 967 Yajnavaraha cho xây đền Banteay Srei, cách Angkor khoảng 100 km về phía tây bắc. Đền này được xem là công trình nghệ thuật bậc nhất của đế quốc Khmer, tuy là không vĩ đại như đền Angkor.

Nhờ Thầy hay, trò giỏi, Jayavarman V khi lớn lên đã thu gom các mối bất hòa, cai trị làm quốc thái dân an.

Tuy rằng thời thinh vượng này đi theo Jayavarman V, khi ông này khuất núi. Đất nước Khmer lại rối loạn. Các vì vua kế tiếp chỉ lên ngôi vài năm là có sự thay đổi. Mãi cho đến khi Suryavarman I, lên nhiếp chính (1010-1050). Đây cũng là thời nhà Lý cực thịnh và mới dời đô từ Hoa Lư- Ninh Bình về Thăng Long, cùng có quốc hiệu Đại Việt. Suryavarman I lập tức liên hệ với đế quốc Chola, ở phía nam Ấn Độ, với quà là một chiến xa thật đẹp. Hoàng đế Rajaraja Chola I hết sức giúp đỡ ông chống lại các kẻ thù.

Khi Suryavarman I đã vững vàng, ông đem quân sang đánh Lopburi tức là vùng Bang Cốc ngày nay, rồi tràn xuống đến Kra Isthmus, tức là chỗ thắt cổ chai trên bán đảo Mã Lai (Nơi này đang có nhiều dự án làm kên đào nối biển Andaman và vịnh Thái Lan.)

 

Nhờ vào sự hậu thuẫn của Chola, kinh tế Khmer tái bộc phát làm quốc gia phú cường. Ngay tại kinh đô Angkor, Suryavarman I cho làm hồ chứa nước lớn nhất Baray Tây.

Đến thế kỷ 11 thì Khmer lại rơi vào cảnh máu đổ thịt rơi, vì sự tranh giành ngôi báu giữa các hoàng thân, quốc thích. Mãi tới năm 1113, một ông vua mới lên cai trị: vua Suryavarman II. Ông đã dẹp tan loạn sứ quân của các hoàng tử công chúa khác. Sau khi trị an xã tắc, Suryavarman II cho quân tiến đánh vương quốc người Mon thuộc trung bộ Thái Lan ngày nay. Với chiến thắng lừng lãy này, ông xua quân sang tận Bagan, trung bộ Miến Điện, mà tôi dã có dịp nói tới khi bàn về các chùa đền Miến trước đây. Và ông đã trải rộng đế quốc như bản đồ dưới đây.

Bản đồ đế quốc Khmer.

Người Cambot bất kì thời gian nào, ở đâu cũng hãnh diện với đất nước thời này.

Thơ bạn đọc: Mười Đặng


GIẤC MƠ

------

 

Hôm nay ngày lễ vu quy

Thẩn thờ tôi tiển em đi lấy chồng

Tưng bừng pháo đỏ,rượu nồng

Say men tình mới,bên chồng sánh đôi

Còn tôi rượu chuốt mềm môi

Cố quên tình củ đứng ngồi tái tê

Nhà em nào cách sơn khê

Mà xa dịu vợi lối về từ đây

Buồn như giăng tím trời mây

Sầu như chim nhạn lẽ bầy đêm sương

Giật mình thổn thức vấn vương

Thì ra một giấc đoạn trường nam kha

Tinh mơ hối hả sang nhà

Nụ cười rạng rỡ em quà cho tôi

Bên hiên cau trổ hoa rồi

Hương thầm thoang thoảng ngở môi thơm nồng

Nắng vàng pha lẫn chút hồng

Cho em thêm thắm,cho lòng tôi say

Tôi về thức trắng đêm nay ./.

Thursday, March 27, 2014

CHIẾN HẠM 4


LỊCH SỬ CHIẾN THUYỀN TIỀN DREADNOUGHT (tt)

Suốt thế kỷ 18, tàu frigate (hộ tống hạm) trở thành một loại nổi danh trước của tuần dương hạm. Tàu frigate là một tàu trang bị nhẹ, hoạt động tầm trung, nhỏ, và nhanh được dùng cho hoạt động thám thính, ngăn chặn ay đánh phá thương thuyền địch.

Với các tàu ship of the line quá to lớn cồng kềnh, di chuyển khó khăn, các nước chuyên về thủy chiến đã phát triển một loại tàu nhỏ hơn tầu chiến tuyến, nhưng lớn hơn hộ tống hạm (frigrate). Tầu này cũng trang bị súng lớn nhưng ít hơn tàu chiến tuyến. Vì trọng lương nhẹ nên tàu có thể đi quanh quẩn, nhanh hơn để tuần tra hay chiến đấu độc lập. Với quan niệm mới này, một loại tàu mới phát sinh Cruisers (đi quanh quẩn) và Việt Nam ta dịch ra tuần dương hạm.

Năm 1679, Thomas Savery (người Anh) phát triển một máy bơm hơi nước. Năm 1712, Thomas Newcomen  (người Anh) sáng chế ra piston áp dụng kỷ thuật bơm ở các mỏ quặng. Nhưng đang kể nhất là James Watt (người Scotland- bắc Anh), năm 1781 đã nộp bằng phát minh về một động cơ quay hơi nước. Từ đó tàu thủy nói chung và chiến thuyền nói riêng đã áp dụng cho các tàu thủy. Lúc đầu các tàu chạy bằng hơi nước chỉ được áp dụng cho thương mại trên sông hồ, vì các bộ phận đẩy thuyền quá lớn, yếu chịu sóng lớn.

Một mẫu tàu chạy hơi nước-steam boat- 1784
Tàu chở hành khách Lookout-1860 chạy trên sông Tennessee Mỹ

Về sau, các caỉ cách mới bằng chân vịt thì ngành viễn dương mới áp dụng máy hơi nước. Các nước đua nhau làm thuỳên lớn xuyên đại dương. Lúc người ta đem máy hơi nước trang bị cho các chiến thuyền thì các buồm vẫn còn được áp dụng để hỗ trợ.

Chiến thuyền Napoleon- 1850- vừa buồm vừa máy.

Hải quân Pháp áp dụng hơi nước cho tàu chiến tuyến đầu tiên là chiếc Le Napoléon. Chiếc này chứa 90 khẩu pháo vào năm 1850. Đây là chiếc ship of the line, áp dụng máy hơi nước để di chuyển thực sự đầu tiên. Napoleon được trang bị vũ khí như một tàu chiến tuyến thông thường, nhưng động cơ hơi nước khiến cho nó có thể đạt được vận tốc 22 km/h (12 knot) bất kể điều kiện gió, một ưu thế đầy tiềm năng mang tính chất quyết định thắng bại trong những cuộc hải chiến.

Việc áp dụng động cơ hơi nước đã thúc đẩy sự gia tăng kích cỡ cùng hỏa lực của tàu chiến. Pháp và Anh Quốc là những nước áp dụng các hạm đội tàu vỏ gỗ với động cơ hơi nước và đẩy bằng chân vịt. Hải quân nhiều nước khác đưa ra hoạt động một số lượng nhỏ tàu chiến chạy bằng chân vịt, bao gồm Nga 9 chiéc, Thổ Nhĩ Kỳ 3  chiếc, Thụy Điển 2 chiếc, Naples 1 chiếc, Đan Mạch 1 chiếc và Áo 1 chiếc.

Thế kỷ 19, với động cơ hơi nước, súng bắn thuốc nổ làm các tàu gỗ không còn khả năng chịu đựng. Điều này đã chứng tỏ ở chiến tranh Crimean war giữa Anh, Pháp, Ottonam và Nga, Hy Lạp. Các trận thủy chiến trên biển Hắc Hải đã thúc dục canh tân tàu chiến bằng vỏ sắt, rồi sa họa sắt. Pháp đã giới thiệu với thế giới chiếc tàu bọc thép La Gloire, có khả năng đi trên đại dương đầu tiên năm 1859. Năm sau thì Anh quốc đem ra chiếc  HMS  Warrior theo chân Pháp. Anh lúc nào củng muốn ở vị trí tiên phong trong hải chiến, nên đât là một bước thụt.

La Gloire (1859) của Pháp, tàu chiến bọc thép đi biển đầu tiên

HMS  Warrior

Với tốc độ phát triển thật nhanh, các tàu gỗ lần lượt thay thế bởi các tàu bọc kim loại và rất nhiều kiểu lớn bé. Bây giờ các súng được giới thiệu không còn như trước mà là các cỗ pháo tháp quay cùng các viên đạn có hai phần đầu đạn và phần chứa thuốc súng như ta thấy ngày nay. Nhờ vào sự di chuyển lên xuống các họng súng và sự quay quanh một trục, nên các pháo tháp được đặt bất kì nơi nào, chứ không còn đặt hai bên mạn sườn như trước.

Các tàu chuyên việc bắn phá, đánh nhau trước là loại line of battle ship, nay được bọc sắt và được đặt tên là Battleship (Thiết giáp hạm). Loại tàu ấy có vỏ sắt dày để chống đạn đối phương. Cái tên này do hải quân Hoàng Gia Anh đặt ra trong khi tái sắp loại các chiến thuyền năm 1892 với chiếc Dreadnought. Các tàu buồm tuần tra nhỏ frigrate (khu trục hạm nhỏ) được thay bằng các tàu máy hơi nước cruiser (tuần dương hạm) lớn hơn và nhanh hơn. Trong giai đoạn đầu, khi được đóng vỏ sắt, trang bị máy hơi nước các tầu chiến cũng có kích tương tương đương với các tàu gỗ, nhưng khi các động cơ được tăng tiến thì các thiết giáp hạm (tàu bọc sắt) có khuynh càng ngaỳ các lớn và các tầu buồm, gỗ cũng từ từ biến mất. Như vậy lúc đầu tất cả các chiến hạm vỏ sắt đầy có tên này.

Cả Pháp lẫn Anh đều nghiên cứu đóng tàu vỏ sắt trong năm 1856. Nhưng trận hải chiến đầu tiên giữa tầu bọc sắt với tầu bọc sắt lại diễn ra trong trận đánh của hai lực lượng Nam, Bắc trong cuộc nội chiến Mỹ về vấn đề nô lệ da đen năm 1862.
 
Trận hải chiến đầu tiên với tầu sắt giữa hai con tàu USS Minitor và CSS Virginia năm 1862.
Trong thời gian này, hải quân các nước vẫn bao gồm các tàu buồm gỗ chen trong các tàu sắt. Nếu quý vị để ý thì vẫn thấy con tàu buồm ở hậu cảnh. Loại tàu này thật sự bị gạt bỏ cho đến khi kết thúc thế hệ tàu chiến chạy buồm vào thập niên 1830. Lúc ấy, vì máy hơi nước cải tiến rất nhiều đủ mạnh đưa tầu đi xa hơn và tàu lớn hơn nên các cột buồm không còn cần thiết nữa.
Đến giữa thập niên 1870, thép được sử dụng làm vật liệu chế tạo cùng với sắt và gỗ. Thiết giáp hạm Redoutable của Hải quân Pháp, được đặt lườn vào năm 1873 và hạ thủy vào năm 1876. Nó là một tàu chiến có dàn hỏa lực trung tâm và tháp pháo nhỏ, trở thành tàu chiến đầu tiên trên thế giới sử dụng thép như vật liệu chế tạo chủ yếu. Chiếc này đã tham dự trận hải chiến lừng danh Trafalgar giữa Pháp và Anh. Trong trận này chiếc Redoutable làm im tiếng súng của chiếc Victory, cùng giết chết vị chỉ huy trưởng của hạm đội này là Vice-Admiral Horatio Nelson.
Vài ngày sau, chính chiếc Redoutable đã bị chìm trong môt trận bão.
Redoutable  và HMS Victory trong trận Trafalgar
 
 

Wednesday, March 26, 2014

Đại Việt thắng Nguyên Mông? Bài 46


CHƯƠNG 04

Bàn về chuyện chiến thắng địch quân thì ta không khỏi phải nói tới các yếu tố cơ bản chiến lược trong binh thư Tôn Ngô, nhất là các cuộc chiến tranh theo lối cổ điển.
Tôn Tử có viết rằng: “Thứ nhất công tâm, thứ nhì công lương, thứ ba công đồn.
Nói như vậy Tôn Tử, Ngô Khởi đã cho việc đánh nhau, quan trọng nhất là chiếm lòng người, và cuối cùng mới đánh nhau thật sự trên chiến trường. Ta cũng phải phân biệt rằng thua một trận đánh không phải là thua cuộc chiến. Nhưng đầu tiên, cái quan trọng gây ra một cuộc chiến thắng hay bại là bởi “Chính Nghĩa”.
I/- Chính Nghĩa trong một cuộc chiến:
Chiến tranh bản chất là tội ác, gây tang tóc, đau khổ cho con người. Nêú ta có thể tránh được chiến tránh thì nên làm việc này đầu tiên. Do đó, một cuộc chiến liên hệ đến chính trị, ngoại giao, kinh tế, tuyên truyền, tôn giáo… chứ không đơn thuần là lấy vũ khí chống vũ khí lấy sức mạnh đấu sức mạnh. Trước khi gây ra cuộc chiến, các nước liên hệ thường đưa ra các lý do mà họ cho là chính nghĩa của cuộc chiến. Lật lịch sử thế giới xưa nay ta thấy trước khi có một cuộc chiến thì thường có những sứ đoàn thương thuyết đến nước trực hệ, nêu lên các chính nghĩa ấy, để tránh đổ máu. Trong các phần trên, ta thấy ngay cả chính Mông Cổ nhiều khi cũng đã lập đồng minh và cũng cử các sứ đoàn thuyết phục đối phương đầu hàng để họ bớt đổ máu. Rồi tiếp theo đó biết bao cuộc vận động đối với các nước khác để làm liên minh dựa theo chính nghĩa của họ. Nước Tần nằm cạnh ba nước Hàn, Triệu, Nguỵ vốn tách ra từ nước Tấn nên gọi là Tam Tấn. Muốn thống nhất, nước Tần chủ trương “Đánh gần, thân xa” có nghĩa kết thân với các nước ở xa trước như Yên, Tề và đánh các nước chung biên giới như Hàn, Ngụy, Triệu và Sở. Nước Sở hùng cường đất rộng chưa dễ đánh chiếm nên mục tiêu đầu tiên của Tần là Tam Tấn. Thời chống Tần các nước yếu Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề và Sở đã từng làm liên minh theo thuyết Tô Tần[1]. Trước khi khởi động chiến tranh xâm lược ở thế chiến thứ hai, Đức cũng lập khối trục với Nhật, Ý. Ngược lại để chống khối ấy liên minh Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô…phải lập đồng minh. Mới đây, trước năm 1990, trên thế giới rất nhiều liên minh quân sự để khống chế lẫn nhau: nào là Nato, Warszawa, Minh Ước Liên Phòng Đông Nam Á…và hiện tại cũng vậy.
Lão Tử là người cho chiến tranh là điều không nên làm trừ khi phải tự vệ, ông nói:  Quân đi đến đâu, ở đấy chỉ có cỏ dại. Phía sau đại quân, tất có mất mùa đói kém.”[2] Trong Chu Dịch[3] cũng viết: “Người theo đuổi chiến tranh, cuối cùng sẽ không thu được thành công, cho nên phải chấm dứt chiến tranh. Người Chu đã thấy được chiến tranh là việc dữ, chiến tranh thực sự là nguồn gốc của tai hoạ, vì vậy chủ trương chấm dứt chiến tranh. Tư tưởng này vô cùng đáng quý.[4] Tôn Tử cũng đưa ra ý tương tự: “Bởi vậy kẻ bách chiến bách thắng không phải là người giỏi nhất; không đánh mà khuất phục được quân đội người khác, đó mới là người giỏi nhất.”[5]. Cũng như Lão Tử đề xướng, ông nói chiến tranh chi nên làm khi bảo vệ đất nước. “Để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, cần tiến hành chiến tranh phòng vệ, không thể phát động chiến tranh xâm lược.” Trong khi ấy học trò của Lão Tử là Văn Tử[6] cũng đưa ra ý kiến giống như thầy.
Tôn Tẫn[7] còn đề xuất vấn đề “ nghĩa” “bất nghĩa” của chiến tranh, tức là vấn đề tính chính nghĩa và tính phi nghĩa của chiến tranh. “Kẻ nào quân ít mà binh lính dũng mãnh là có chính nghĩa vậy. Chiến tranh chính nghĩa, quân tuy ít vẫn có thể kiên cường dũng mãnh, “ chiến thắng mà vững mạnh” khiến cho “thiên hạ phục”, ngược lại “ chiến tranh mà vô nghĩa, thiên hạ không thể cho đó là vững và mạnh”. Chiến tranh phi nghĩa cho dù là tạm thời chinh phục được nước khác, cũng không thể khiến cho lòng dân quy phục mà trở thành kẻ mạnh.”[8] Khương Tử Nha còn chủ trương: “Đạo dùng binh là vì thương dân mà đánh kẻ có tội.”[9]
Không riêng gì Tôn Tẫn, Gia Cát Lượng[10], nhà quân sự lừng danh đời Tam Quốc, đã nhấn mạnh về chính nghĩa. Ông chủ trương:“Chính trị trong việc cầm quân là việc giữ yên biên giới, là đạo cứu giúp đại loạn, lấy uy vũ làm chính sự, trừ bạo tàn dẹp phản nghịch, là kế để giữ nước, an xã tắc. Do đó có văn sự tất có võ bị…Vũ khí của quân đội là để chấn chỉnh điều bất nghĩa, trừ hại cho dân”[11] Điền Tương Như[12] cũng nghĩ tới việc chọn dân làm gốc, chiến tranh chỉ dùng để diệt bạo tàn. Ông còn khuyến khích người trị quốc phải lấy sáu đức nhân, nghĩa, lễ, trí , tín, dũng làm đầu.
Trong lịch sử ta đã thấy biết bao lần con người đã dùng tới chính nghĩa để đánh giặc:
Hồi thế kỷ thứ nhất, lúc Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Việt Nam lấy chính nghĩa diệt quân thù, thì bên Anh cũng có một nữ lưu anh thư tên Boudica[13] (6-60 AD), lấy chính nghĩa đánh ngoại xâm. Bà là vợ vua Pratusagus, đã lãnh đạo dân Anh đánh với quân của Đế Quốc La Mã, và thắng được nhiều trận. Lúc đầu, bà cũng chỉ có vài ngàn người theo, nhưng sau vì chính nghĩa nên quân của bà lên đến cả chục vạn người (sẽ viết tiếp theo). Sự xâm lăng thông thường là vô chính nghĩa; trong quyển: Chu Dich với binh pháp, trang 7, nói chính nghĩa trong cuộc chiến như sau: “Để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, cần tiến hành chiến tranh phòng vệ, không thể phát động chiến tranh xâm lược…”
Đối với một quốc gia đã có một nền chính trị văn hóa thì sự thành công của một cuộc xâm lược chỉ là tạm thời. Chúng tôi không muốn nói đây là sự tuyệt đối chẳng hạn Việt Nam đã nuốt chửng Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp cũng như người da trắng đã chiếm được Mỹ Châu từ tay người da đỏ là các trường hợp ngoại lệ. Một lý do chính cuả các nước đó là quá nhiều bộ lạc không đoàn kết chống xâm lược, chưa phát triển được văn hóa đúng mức, chưa có một tổ chức chính trị và ý thức về quốc gia vững chắc. Nếu Mông Cổ xâm lăng Đại Việt thời mạt Lý thì chẳng biết kết quả ra sao?
Nước Mỹ ở một phương trời xa xăm đối với Việt Nam, và cùng thời với Nguyễn Tây Sơn giấy nghiệp, cũng đã từng chiến đấu chống lại Anh quốc giành độc lập. Cuộc chiến đi đến thành công là nhờ chính nghĩa. Sau đó, nước này lại xẩy ra một cuộc nội chiến nam, bắc (1849-1865) và cuối cùng cái chính nghĩa cũng đã thắng.
Vì không chính nghĩa nên các đế quốc La Mã, A lịch Sơn, Caliphate, Ottoman… chiến thắng tạm thời rồi cũng tan rã. Đế quốc MC chiếm hơn già nửa thế giới (ngày đó), giết đến 40 triệu người (theo một số tài liệu- Wikipedia) cuối cùng cũng trở về chỗ cũ. Một Nã Phá Luân chinh phục khắp Âu Châu rồi cũng tan tành. Nhà Minh xâm lược Việt Nam ta cuối cùng cũng phải bỏ chạy. Quân Thanh mấy lần xâm chiếm Miến Điện, Việt Nam nhưng cũng chỉ rước lấy thảm họa. Đức quốc xã với chủng tộc siêu việt, đã đánh bại bao nhiêu quốc gia nhưng họ đã hưởng được gì? Người Nhật có tinh thần yêu nước cực độ vậy mà khi đi xâm lăng các nước Á Đông rồi còn có gì đâu? Sau thế chiến thứ hai, Pháp trở lại Việt Nam với sự hậu thuẫn của Mỹ, Anh và một số tay sai người Việt. Họ cậy có vũ khí tối tân để đè bẹp các lực lượng ái quốc dành độc lập với mã tấu, tầm vông vạt nhọn. Vậy mà trong suốt mấy năm đầu (1946-1949) người Pháp đã không tiêu diệt được lòng ái quốc của đại đa số dân tộc ta. Và cuối cùng, với sự trợ giúp của các nước Cộng Sản, Việt Minh đã làm họ phải dương cờ trắng. Đó cũng vì ta đã có chính nghĩa. Nhưng trong các thí dụ thì nước Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam là một thí dụ độc đáo nhất. Nước này đã gom nước ta thành một quận trong hơn 1000 năm mà cuối cùng người Việt cũng đứng dạy lật ách gông cùm. Với khoảng thời gian dài như vậy thì quốc gia này phải vĩnh viễn chỉ là một tỉnh của các nước khổng lồ ấy, thế mà với chính nghĩa quốc gia dân tộc mà người mình đã làm một việc cổ kim chưa thấy.
Chu dịch với binh pháp, cũng trang 7, đã phản ảnh điều trên và đã viết: “Nếu ta vô cớ đi tập kích, xâm phạm kẻ mông muội vô tri, tuy có thể giành thắng lợi, nhưng sẽ chuốc lấy sự căm ghét của người thiên hạ.”
Ngày nay, các quốc gia muốn đánh một nước nào thường tìm hai chữ “Chính Nghĩa” để họ có được hậu thuẫn của cộng đồng thế giới. Muốn có điều này, mục đích chiến tranh thường được đem ra Hội Đồng Liên Hiệp Quốc bàn tán, rồi thông qua bởi một quyết nghị (resolution). Lịch sử thế giới cận đại đã ghi bao lần như vậy với một liên quân đi đánh một nước phạm lỗi. Khi Mỹ tấn công Iraq 1991, thì họ có chính nghĩa vì bảo vệ tiểu quốc Kuwait tránh cuộc xâm lăng từ Iraq; đánh Afganistan thì họ cũng có chính nghĩa vì diệt khủng bố, nhóm người tự dưng khơi mào giết dân Mỹ vô tội và được dư luận thế giới ủng hộ kể cả Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Nhưng đến lúc xâm lăng Iraq lần thứ hai họ đã đánh mất chính nghĩa rồi. (Đoạn này được viết trên diễn đàn VVH năm 2007)
Như vậy muốn có sự thành công tốt đẹp trong một cuộc chiến thì việc đầu tiên ta phải nói tới là “CHÍNH NGHĨA”.


[1] Tô Tần (蘇秦không biết năm sinh nhưng chết vào khoảng năm 316 TCN), tự Quý Tử (季子), người ở Lạc Dương nước Đông Chu, là một biện sĩ lừng danh đã đi du thuyết thời Chiến Quốc.
[2] Trích từ quyển: Chu Dịch và Binh Pháp, trang 62.
[3] Chu Dịch được coi như là một tác phẩm rút ra từ Kinh Dịch.
[4] Phần này trích từ Chu Dich với binh pháp trong trang 8.
Tác giả Khương Quốc Thụ, dịch giả Nguyễn Hữu Tưởng.
[5] Trích từ quyển: Chu Dịch và Binh Pháp, trang 20.
[6] Theo Chu Dịch và Binh Pháp.
[7] Tôn Tẫn là một thiên tài quân sự nổi tiếng ở Trung Hoa thời Xuân Thu (722 – 481 TCN). Ông làm Nguyên Soái cho vua nước Ngô là Lạp Hư. Ông dùng 3 vạn binh Ngô phá 20 vạn quân Sở.
[8] Chu Dịch với binh pháp trang 38.
[9] Chu Dịch với Binh Pháp trang 23.
[10]  Khổng Minh- Gia Cát Lượng (181234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán
[11] Trích từ Chu Dich với binh pháp, trang 55.
[12] Điền Tương Như hay còn được biết dưới tên Tư Mã Tương Như, làm đại tư mã cho Tề vào cuối đời Xuân Thu.
[13] Bài này viết dựa vào History Channel và quyển “The Story of Britain” của Rebecca Fraser.

Saturday, March 22, 2014

CHIẾN HẠM 3


LỊCH SỬ CHIẾN THUYỀN TIỀN DREADNOUGHT

(Dreadnought là một chiến hạm của Anh. Chiến hạm này đã làm một cuộc cách mạng. sẽ viết thêm sau này.)

Tiếp theo vào thời trung cổ các nước Âu Châu thi đua thiết kế, sản xuất các loại tầu chiến, nên ta sẽ chú trọng tìm hiểu sự phát triển các tàu ở các nước này hơn là ở Á Đông. Cũng vì sự phát triển ấy, mà tất cả các quốc gia ở Á, Phi đều ngã quỵ trước các con tàu sắt Tây Phương kể cả các nước khổng lồ Trung Hoa-Ấn Độ.

Như đã viết trên, các chiến thuyền thời cổ chỉ có một hầm cho các tay chèo còn trên sa họa (sân tàu) là cho cho binh lính bắn cung ném thương hay chiến đấu tay đôi.

Khi đồng và các kim loại được khám ra cách đúc thì các mũi ramp để húc nhau được thay bằng kim loại thay cho gỗ.

Mãi đến thế kỷ thứ 4, khi các catapult (súng bắn đá) được phát minh, thì các chiến thuyền dành 1 phần của sa họa (boong) để chứa các khẩu súng bắn đá này.

Một khẩu súng bắn đá.
(hình vẽ bằng Solidworks và Photoworks bởi tác giả)

Đời Tống (thế kỷ 13) bên Trung Hoa, người Tàu đã phát minh ra thuốc nổ, rồi áp dụng cho các loại bom đánh lại Mông Cổ. Thuốc nổ lan dần sang các nước Á Rập và Âu Châu. Đến thế kỷ 14 tiếp theo, người ta bắt đầu làm ra các loại súng bắn bằng thuốc nổ, nhưng súng vẫn chưa được đem lên chiến hạm là vì sự tái sử dụng quá chậm chạp và thuyền chèo ( 1 buồm- sloop) vẫn là vấn đề nan giải cho trọng lượng các súng. Trong thế kỷ 16, các chiến thuyền được tăng cường bởi các cung phóng lao lớn thêm vào cung thường, nỏ, kiếm, thương...Cuối thế kỷ này, chiến thuyền dùng nhiều buồm (galleon) và kỹ thuật đi ngược gió có phần hữu hiệu hơn. Người ta bắt đầu, đem súng đại bác lên thuyền.

 
Các chiến hạm thời thuyền buồm
 
Đến giữa thế kỷ 17, các thuyền buồm (galleon) lớn hơn với nhiều súng hơn. Người Miền Nam trước năm 1975 đã được xem rất nhiều phim về hải tặc của Hollywood kể cả phim hoạt họa Peter Pan với các thuyền buồm loại này.

English_Galleon_Model

Spanish_Galleon

Japanese Galleon

Hình vẽ một chiến thuyền buồm của Hòa Lan trong một trận đánh.

Cũng trong thế kỷ này, hải quân chia làm hai loại: Ship of the Line (tầu chiến tuyến) và frigate (tàu khu trục nhỏ).

Galleon với kích thước lớn có khả năng chở tới 120 cỗ pháo nòng ngắn, nhồi đạn từ phía trước đã trở thành Ship of the line hay còn gọi là The Line of Battle Ship. Các cỗ pháo ngày ấy nòng không có đường khương tuyến nên tầm bắn chỉ vài trăm thước. Ship of the line là loại tàu dàn hàng ngang, rồi đem hỏa lức tối đa giao chiến với các cỗ pháo nặng nề ít có khả năng xoay chuyển. Loại tàu này về sau trở thành battleship vì nói tắt của The Line of Battle Ship (thiết giáp hạm).


Sự áp dụng hơi nước làm chuyển vận các vật dụng đã từng được thực hiện 2000 năm trước. Tuy nhiên các áp dụng chẳng thực tiễn nên người ta hầu như quên lãng.
Ship of the Line

Thursday, March 20, 2014

Các ngôi đền-chùa nổi tiếng 13


Angkor Wat, Campuchia(tt)


 

Một người của giòng họ vương tộc Phù Nam là hoàng tử Jayavarman sống ở Sailendra (Java ngày nay) quay trở lại Thủy Chân Lạp. Trong lịch sử không nói tại sao ông lại sống ở đây và ông trở lại đây như thế nào, song căn cứ vào chuyện hải quân Sailendra đã cướp phá Thủy Chân Lạp thì có thể ông này đã quay về theo con đường ấy. Ông đã tụ tập dân quân, lập ra một lực lượng quân sự mạnh đánh chiếm các vùng đất Thủy Chân Lạp.

Năm 802, ông tự nhận là chakravartin ("king of the world", hay "vua của các vì vua"), và mau chóng chiếm lại phần đất mà ông cha của ông đã lập vài thế kỉ trước. Khi lên ngôi, người ta biết ông với tên Jayavarman II. Người Cambot thường gọi vương quốc mà ông lập ra là là đế quốc Khmer hay Vương Quốc Kambuja hoặc Kampuchea. Với danh từ Kambuja (mà người Âu Châu sau này dịch là Cambodia) thì lại có một lịch sử đặc biệt. Thời thế kỷ III, trước công nguyên, Alexander the Great (đại đế Alexander- Hy Lap) đã từng giao chiến với quân nước Kambujia. Nhưng nước này lại ở tây bắc Ấn Độ ngày nay- tức là vùng Afghanistan. Trong trận này kị binh Alexander bị 200 con voi của Kambujia đánh tơi tả. Chính Alexander cũng bị thương súyt chết, nên đành tháo lui. Đây là trận mà ông đại đế lừng danh này đã chịu thua trước một đối thủ nhỏ bé.

Nếu đem so sánh thời điểm lịch này của sử Khmer với Việt Nam ta, ta thấy lúc ấy nước mình vẫn còn là một quận của nhà Đường- TQ.

Chẳng hiểu là lịch sử Bangladesh có lầm lẫn hay không? Khi họ viết một người nước họ tên Brahmin Kauṇḍinya mang cung thần sang đây lập ra nước Phù Nam. Dù là người Bangladesh hay người Kambuja- Tây bắc Ấn Độ đi nữa thì một sự thực rõ ràng là nước này chịu ảnh hưởng nặng nề của văn minh Ấn Độ, đặc biệt là thờ ba vị thần cao cả nhất của Ấn Độ Giáo là:

Brahma: Thần sinh ra muôn loài.

Vishnu: Thần giữ muôn loài khỏi bị diệt. Thần này đã quậy nước biển thành sữa để nuôi muôn loài.

Shiva: Thần tàn phá và kiến thiết.

Thiết tưởng ta cũng nên biết qua về văn hóa, phong tục tập quán nước này thông qua quyển Chân Lạp Phong Thổ Ký của Châu Đạt Quan- Quyển này ông viết vào thế kỷ XIII, nên không biết thời thế kỷ thứ IX (9) như thế nào? Có hoang sơ hơn không? Ở đây tôi chỉ ghi lại các phong tục đặc biệt thôi.

Về y trang ông viết:

“PHỤC SỨC :

Tất cả mọi người, bắt đầu từ nhà Vua, đàn ông và đàn bà đều bới tóc để vai trần. Họ chỉ quấn giản dị ngang lưng một miếng vải. Khi ra đường, họ quấn thêm một mảnh vải lớn chồng lên miếng nhỏ. Có nhiều qui tắc dùng hàng vải tùy theo phẩm trật của mỗi người. Trong các loại hàng của nhà Vua mặc có loại giá từ 3 đến 4 lượng vàng thật lộng lẫy và xinh đẹp vô cùng. Mặc dầu người trong nước cũng có dệt hàng vải và có mua của nước Xiêm và Chiêm-Thành nhưng loại dệt khéo và mảnh dẻ được quí trọng nhất thường ở Ấn độ đưa đến.

Chỉ có nhà Vua  mới có thể mặc hàng vải thêu dính liền nhau. Ngài đội một cái mão bằng vàng giống như mão trên đầu các tượng Phật kim cương. Đôi khi Ngài không đội mão chỉ quấn một vòng hoa mùi hoa lài xung quanh đầu tóc. Trên cổ, Ngài đeo hột trai thật lớn nặng lối ba cân. Ở cổ tay, cổ chân và ngón tay, Ngài đeo vòng và nhẫn vàng, tất cả đều nhận ngọc mắt mèo. Nhà Vua đi chân không. Gan bàn chân và lòng bàn tay của Ngài nhuộm thuốc màu đỏ. Khi ra ngoài, Ngài cầm một thanh gươm vàng.

Trong dân gian, chỉ có đàn bà được nhuộm gan bàn chân và lòng bàn tay, đàn ông không dám nhuộm. Các vị quan to và các Hoàng thân được mặc hàng vải thuê hoa thưa. Các quan lại tầm thường chỉ được mặc hàng vải thêu hai khóm hoa. Trong dân gian chỉ có đàn bà được phép mặc các loại hàng ấy. Nhưng nếu có người Tàu mới đến mà mặc loại hàng có hai khóm hoa người ta cũng không dám buộc tội vì lẽ "ám đinh bát sát". Ám đinh bát sát là không biết luật lệ.”

Về trẻ con và tôn giáo thì quyển hồi ký ghi lại:

Trẻ con ngoài đời trước tiên đều vào trường học (7) do các vị sư sãi dạy dỗ. Đến tuổi trưởng thành chúng trở về cuộc sống thế tục. Tôi không thể quan sát tất cả từng chi tiết.”

 

Tả lại hình dáng con người, Châu Đạt Quan viết:

Dân chúng chỉ biết phong tục của giống man rợ ở miền Nam. Về dung mạo thì thô lỗ, xấu xí và thật đen. Đó không phải chỉ là trường hợp của những kẻ cư ngụ trong vùng biệt lập trên các hòn đảo ngoài biển, mà đối với những kẻ ở tại các bộ lạc thông thường chắc chắn cũng giống như vậy. Về phần các bà ở trong cung và phụ nữ các nhà quí phái, nếu có nhiều người trắng như ngọc thạch là vì họ không thấy ánh sáng mặt trời. Toàn thể đàn bà cũng như đàn ông chỉ mặc một mảnh vải quấn ngang hông, để trần bộ ngực trắng như sữa, bới đầu tóc và đi chân không; các bà vợ vua cũng ăn mặc như vậy. Nhà Vua có năm vợ, một bà ở cung chính giữa và bốn bà ở bốn hướng, còn về phần cung phi và thị nữ ở trong cung, tôi nghe nói ba ngàn đến năm ngàn phân ra nhiều hạng; các bà ít khi ra khỏi cung.

Mỗi lần tôi vào triều kiến nhà Vua, Ngài luôn luôn ngự ra với bà vợ thứ nhất và ngồi trong khuôn cửa sổ vàng của ngôi điện chánh. Các bà trong cung đều đứng thành hàng có thứ tự hai bên mái hiên và phía dưới cửa sổ, nhưng lại đổi chỗ và tựa vào cửa để nhìn chúng tô, nhờ đó tôi có thể ngắm họ rõ rang.

Gia đình nào có con gái đẹp, tất được triệu nạp vào cung. Dưới các cung phi là những bà phụ trách việc đi lại trong cung Vua gọi là Trần-gia-lan (tch'en-kia-lan) tổng số không kép một hay hai ngàn. Tất cả đều có chồng và sống trong dân chúng khắp nơi, nhưng trên trán họ cạo tóc theo lối người phương Bắc "mở đường nước". Họ thoa phẩm đỏ chỗ cạo ấy và hai bên màng tang, đó là dấu hiệu đặc biệt của họ. Chỉ có các bà này mới được vào cung, tất cả người nào thuộc hạng dưới họ không vào được. Họ đi liên tiếp không ngừng trên các con đường phía trước và phía sau cung Vua.

Phụ nữ bình dân bới đầu tóc nhưng không dắt trâm, không có lược, không có đồ trang sức gì cả. Họ đeo vòng vàng ở cổ tay, nhẩn vàng ở ngón tay, cả những cung phi và các bà ở trong cung đều đeo như vậy. Đàn ông và đàn bà luôn luôn xức dầu thơm mùi bạch đàn, xạ hương và các mùi khác. Tất cả các gia đình đều thờ Phật.”

Một trong những cái lạ vê phong tục tâp quán mà quyển Chân Lạp Phong Thổ Ký  đã ghi lại là việc liên quan đến đàn bà con gái. Chúng ta cùng đọc cái lạ lùng này.

Trước hết ta xem về người đàn bà:

SẢN PHỤ (Sanh sản)

Vừa mới sing xong, người đàn bà bổn xứ lấy cơm nóng lăn muối để vào bộ phận sinh dục. Sau một ngày một đêm, sản phụ lấy miếng cơm ra. Nhờ đấy sự sanh nở không biến chứng gì tai hại và giúp sản phụ trở lại như một cô gái còn trinh. Khi mới nghe lần đầu, tôi ngạc nhiên và không tin. Nhưng khi người con gái trong gia đình tôi trọ "nằm chỗ", tôi được dịp hỏi đầy đủ chi tiết, hôm sau, cô ả bồng đứa bé xuống sông tắm, thật hết sức lạ lùng.

Ngoài ra tất cả những người tôi quen đều nói rằng đàn bà xứ này rất đa tình. Một hay hai ngày sau khi sinh nở, họ gần chồng ngay. Nếu người chồng không đáp lại sự đòi hỏi của họ thì sẽ bị bỏ rơi như ông Mãi-Thần (3). Nếu người chồng có việc phải đi xa vài đêm thì được, nhưng quá mười đêm, người vợ tất nhiên phải nói: "Tôi không phải là một hồn ma, làm sao tôi có thể ngủ một mình được?"
Bản tính dâm đãng của họ rất mãnh liệt, tuy nhiên, tôi cũng nghe nói có người giữ được trinh tiết với chồng. Phụ nữ rất mau già có lẽ vì họ lấy chồng và sanh sản quá sớm. Năm hai mươi hoặc ba mươi tuổi họ giống đàn bà Tàu bốn mươi hoặc năm mươi.”

Và bây giờ xem đến các phần liên quan đến con gái, Châu Đạt Quan- viết:

“THẤT NỮ (Gái chưa chồng)

Khi một gia đình sanh con gái, người cha và người mẹ không quên van vái: Vái cho con sau này thành vợ của trăm và ngàn người chồng"!

Giữa năm bảy và chín tuổi đối với con gái nhà giàu, và riêng năm mười một tuổi đối với kẻ thật nghèo, người ta nhờ một tu sĩ Phật giáo hoặc Bà-la-môn phá tân. Người ta gọi lễ ấy là Trận-Thảm (Tchen-T'an).

Mỗi năm chánh quyền lựa một ngày trong tháng tương đương với tháng tư của Trung-Hoa và truyền rao cho khắp nước biết. Gia đình nào có con gái dự lễ Trận-Thảm phải báo trước với chánh quyền và viên chức phụ trách trao cho họ cây đèn cầy có khắc một cái dấu. Đến ngày định trước, khi trời sập tối, người ta đốt cây đèn cầy và khi đèn cháy tới dấu thì lễ Trận-Thảm bắt đầu.

Trước ngày ấy một tháng hoặc mười lăm ngày, hoặc mười ngày, cha mẹ cô gái lựa một tu sĩ Phật giáo hay Bà-la-môn tùy nơi họ ở. Thường thường các ngôi chùa Phật và đền thờ Bà-la-môn đều có khách riêng. Các vị sư hảo hạng tu theo đường lối cao siêu được những gia đình quan lớn và phú hộ đặt trước, còn những người nghèo thì không có thì giờ rổi rảnh mà chọn lựa. Quan chức và phú gia dâng tặng tu sĩ rượu, gạo, hàng vải, tơ lụa, vật dụng bằng bạc nặng đến trăm tạ và trị giá từ hai đến ba trăm lượng bạc trắng của Trung Hoa. Tặng phẩm ít hơn có từ ba mươi đến bốn mươi, hoặc từ mười đến hai mươi tạ tùy theo gia sản của mỗi người. Nếu những cô gái nghèo đến mười một tuổi mà chưa làm lễ phá tân là tại không thể gánh nổi các tổn phí ấy. Cũng có người cho các cô gái nghèo tiền sở phí cuộc lễ Trận-Thảm và người ta gọi đó là "thực hành một việc tốt đẹp". Một nhà sư chỉ có thể phá tân một cô gái trong năm và khi nhận tiền của một người rồi, sư không được hứa với kẻ khác.

Đêm ấy, người ta tổ chức một đại tiệc có âm nhạc. Giữa lúc đó, thân nhơn và láng giềng tựu họp ngoài cửa, trên các bục cao có để tượng người và thú vật nắn bằng đất sét, có khi nhiều hơn mười có khi ba hay bốn tượng. Người nghèo không có làm như vậy. Đấy là theo những phong tục xưa cũ và chấm dứt sau bảy ngày.

Mặt trời sắp lặn, người ta khiêng kiệu, cầm lọng đi theo giàn nhạc đến rước vị tu sĩ. Người ta che hai cái rạp bằng hàng lụa nhiều màu, cô gái ngồi trong một rạp, vị tu sĩ ngồi rạp kia. Người ta không thể nghe họ nói những gì, tiếng nhạc ồn ào và đêm ấy không có lịnh cấm làm náo động.

Tôi nghe nói rằng đến giờ hành lễ, vị tu sĩ vào rạp của cô gái dùng bàn tay phá tân và nhúng tay ấy vào rượu. Người ta còn nói rằng cha mẹ, thân nhơn và láng giềng lấy rượu ấy chấm trên trán hoặc uống nữa. Cũng có người nói vị tu sĩ phá tân cô gái thật sự, có người nói không có. Vì lẽ người ta không cho phép người Tàu chứng kiến các việc ấy nên không thể nào biết rõ ràng sự thật.

Sáng lại, người ta đưa vị tu sĩ trở về bằng kiệu, lọng và giàn nhạc. Phải lập tức xin vị tu sĩ cho chuộc cô gái bằng hàng vải và tơ lụa, nếu không cô ấy sẽ vĩnh viễn thuộc quyền của vị nầy và không được gã cho người nào khác.

Những gì tôi trông thấy diễn ra trong đêm thứ sáu, tháng tư năm Đinh-Dậu (Ting-yeou), niên hiệu Đại-Đức (Ta-to) (nhằm ngày 28 tháng tư D.L 1297). Trước cuộc lễ, cha mẹ và con gái ngủ chung một phòng, từ đó về sau, cô gái bị loại khỏi nhà và muốn đi đâu thì đi, không bị cấm đoán và gìn giữ.

Trong lễ cưới, dù tục lệ có điểm tặng hàng lụa, đó là một hình thức không quan trọng, nhiều kẻ ăn ở với nhau trước rồi mới cưới sau, phong tục không cho đó là điều xấu hổ, không đáng ngạc nhiên.

Trong đêm có lễ Trận-Thảm, có khi tại một xóm hơn mười nhà cử hành lễ. Giữa thành phố, đoàn người rước nhà sư hoặc vị tu sĩ chạm trán khắp đường xá; không nơi nào mà người ta không nghe tiếng nhạc trổi.”

 

Trong quyển này cũng còn ghi lại việc nhận, hay mua nô lệ. Nô lệ là các người thuộc các bộ lạc thiểu số hay tù binh trong một trận chiến. Quyển đã được ghi:

"Người ta mua những dân man rợ bắt làm công việc của kẻ nô-tì. Người có nhiều nô-tì nhất là trên một trăm tên, người có ít hơn là từ mười đến hai chục tên, chỉ có kẻ thật nghèo thì không có gì cả. Dân man rợ là những người ở trên núi hoang. Bọn chúng hợp thành một sắc dân riêng biệt mà người ta gọi là bọn cướp "Chàng" (Tchouang). Đem chúng về thành phố, chúng không dám đi ra khỏi nhà. Tại đây, trong cuộc cải vã nếu có người nào gọi địch thủ là "Chàng tặc" thì kẻ kia cảm thấy sự thù ghét thâm nhập đến xương tủy vì lẽ giống dân ấy bị mọi người khinh bỉ. Tên nào còn trẻ và khỏe mạng đáng giá một xấp vải dài lối trăm thước, tên nào già và yếu, người ta có thể đổi bằng ba chục hay bốn chục thước. Dân nô-tì chỉ được phép ngồi và ngủ dưới lầu; chúng có thể lên lầu để làm việc nhưng phải quỳ gối chắp hai tay lạy rồi mới được đi tới. Chúng gọi ông chủa là ba-đà (pa-t'o), bà chủ là mể (mi); ba-đà (pa-t'o) nghĩa là cha, mể (mi) là mẹ. Nếu chúng vi phạm một lỗi lầm và bị đánh thì cúi đầu chịu đòn không dám cử động chút nào. Đàn ông và đàn bà bọn chúng ăn ở với nhau, không bao giờ chủ nhân muốn kết tình với chúng.

Nếu ngẩu nhiên một người Tàu đến đó, sau thời gian dài sống cô đơn, lỡ vô ý "giao tiếp một lần" với một trong đám phụ nữ ấy và bị người chủ biết được thì hôm sau ông này từ chối không ngồi chung với anh ta nữa vì anh ta đã giao tiếp với dân man rợ.

Nếu người đàn bà nô-tì có thai cùng kẻ lạ với nhà chủ và sanh con thì người chủ không cần tìm hiểu kẻ nào là cha của đứa bé vì người mẹ không thuộc giai cấp thường dân và chính ông ta có lợi được thêm đứa nhỏ, đó là những tên nô-lệ trong tương lai.

Nếu bọn nô-tì bỏ trốn và bị bắt thì người ta xâm màu xanh trên mặt, hoặc tròng vào cổ một cái vòng sắt để giữ, có kẻ mang vòng ấy trên cánh tay hay ở cổ chân."

Về các ngày lễ hội, nước Khmer ảnh hưởng nhiều với văn minh Ấn Độ. Ta cũng thấy được ghi lại trong Chân Lạp Phong Thổ Ký.

CHÍNH SÓC THỜI TỰ (Năm, tháng và thời tiết).

Những người nầy (Khmer) luôn luôn dùng tháng mười của Trung-Hoa làm tháng thứ nhứt của họ. Tháng ấy gọi là Giai đắc (Kia-to). Trước hoàng thành, người ta cất một cái rạp lớn có thể chứa hơn ngàn người, và treo đầy đèn, hoa. Phía trước, cách khoảng hai chục trượng, người ta dùng những miếng cây sắp nối tiếp nhau cất một cái rạp cao giống sàn xây các ngôi tháp bề cao hơn hai chục trượng. Mỗi đêm người ta cất ba hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu cái. Trên nóc người ta để pháo thăng thiên và pháo nổ. Tổn phí này do các tỉnh và các nhà quý phái gánh chịu. Tối đến, người ta thỉnh nhà Vua ngự ra dự lễ. Người ta đốt pháo thăng thiên và pháo nổ. Pháo thăng thiên bay cao dù ở ngoài trăm dặm cũng ngó thấy; pháo nổ lớn bằng súng bắn đá và tiếng nổ làm rung chuyển cả thành phố. Các quan chức và nhà quý phái góp phần đèn cầy và cau, số tiền tổn phí thật to tát.

Nhà Vua cũng có mời quý vị Sứ thần ngoại quốc tham dự. Cuộc lễ cử hành như thế trong mười lăm ngày rồi ngưng hết.

Mỗi tháng có một cuộc lễ. Tháng tư "người ta liệng trái cầu". Tháng chín là lễ Áp-lạp (Ya-lie) lễ này gồm có việc tựu họp dân chúng khắp lãnh thổ vào thành phố diễn hành trước hoàng cung. Tháng năm người ta "đi rước nước của Đức Phật"; người ta tập trung tất cả tượng Phật ở khắp các chùa trong lãnh thổ rồi đem nước đến cùng với nhà Vua tắm các tượng ấy. Tháng sáu, người ta "chèo thuyền trên mặt đất"; nhà Vua ngồi trên lầu cao dự lễ. Tháng bảy người ta "đốt lúa". Lúc ấy lúa vừa chín, người ta ra ngoài cửa thành hướng Nam gặt lúa và đốt để cúng Phật. Vô số phụ nữ ngồi xe hoặc cởi voi đến dự lễ nhưng nhà Vua vẫn ở trong cung. Tháng tám là lễ Ai-lan (ngai-lan) nghĩa là nhảy múa, người ta chỉ định những kép hát và nhạc sĩ mỗi ngày đến hoàng cung trình diễn, ngoài ra có những cuộc đấu voi hoặc đấu heo. Nhà Vua cũng mời quý vị Sứ thần ngoại quốc đến dự. Cuộc lễ kéo dài mười ngày. Tôi không thể nhớ rõ ràng những lễ gì trong mấy tháng khác.

Trong xứ này có người tinh thông khoa Thiên-văn như chúng ta và có thể tính toán nhật thực và nguyệt thực. Tuy nhiên đối với tháng dài và ngắn, họ có một phương pháp tính khác với phương pháp của chúng ta. Trong những năm nhuận họ cũng bị bắt buộc phải có một tháng nhuận, nhưng họ chỉ chen vào tháng chín, đó là điều tôi không biết gì cả.

Mỗi đêm chỉ chia làm bốn canh. Bảy ngày là một tuần, cũng tương tự ở Trung Hoa người ta gọi Khai, Bế, Kiến, Trừ (K'ai, Pi, Kien, Tch'ou) ).

Vì lẽ người bổn xứ không có tên gia đình (họ), không có tên người và không ghi nhớ ngày sanh nên phần đông đặt một "tên người" theo ngày trong tuần mà họ chào đời. Có hai ngày trong tuần thật tốt, ba ngày bình thường, hai ngày thật xấu; ngày nào người ta có thể đi về hướng Đông, ngày nào người ta có thể đi về hướng Tây. Phụ nữ cũng biết tính toán xem ngày tốt xấu. Mười hai con thú (con giáp) của chu kỳ cũng giống với mười hai con thú của Trung Hoa nhưng tên gọi khác nhau. Con ngựa (ngọ) gọi là “pou-sai”, con gà (dậu) gọi là “man”, con heo (hợi) gọi là "tche-tou", con trâu (sửu) gọi là "Ko"…”

Về việc mai táng, quyển sách này ghi lại:

"Đối với người chết, người ta không dùng quan tài, chỉ dùng một loại chiếu và bó bằng vải. Trong đám táng, họ cũng cầm cờ, phướng và có giàn nhạc đi đầu. Ngoài ra, họ bưng hai mâm gạo rang nổ vãi từng nắm hai bên đường. Họ khiêng xác chết ra khỏi thành phố, đến nơi vắng vẻ không có người ở rồi bỏ đó trở về. Họ đợi kên kên, chó và các thú vật khác đến xé xác. Nếu xác chết bị ăn hết mau chóng, họ nói rằng cha, mẹ họ có phước đức mới được hưởng điều quả báo ấy, nếu xác không bị thú ăn hoặc ăn từng miếng, họ nói rằng cha, mẹ họ mang vài tội lỗi mới có hậu quả như vậy. Hiện thời, dần dần cũng có người hỏa thiêu người chết, đó là đối với phần đông con cháu của người Trung-Hoa. Khi cha hoặc mẹ chết, con không mặc quần áo tang, nhưng con trai cạo đầu và con gái cắt tóc phía trên trán lớn bằng đồng điếu, đó là lối để tang cha mẹ. Nhà Vua được chôn trong ngôi tháp, nhưng tôi không biết người ta chôn thân mình hay chỉ chôn bộ xương ."

Việc canh nông, người khmer có lối độc đáo riêng về cách là lúa tốt. Ta hãy xem Châu Dạt Quan tả lại:

"Họ không dùng một thứ phân nào để bón ruộng và trồng rau vì họ chê dơ dáy. Người Trung-Hoa đến đây không bao giờ cho họ biết lối rải phân (3) ở nước mình vì sợ họ khinh bỉ. Hai hoặc ba gia đình đào chung một cái hố (4) dùng cỏ che ở trên, khi nào đầy họ lấp đất và đào chỗ khác. Sau khi đi sông rồi, họ luôn luôn vào hồ nước rửa, nhưng chỉ dùng bàn tay trái; tay mặt để cầm thức ăn. Khi họ thấy người Trung Hoa đi sông và chùi bằng giấy thì họ chế nhạo đến nỗi không muốn cho người đó vào nhà họ nữa. Trong giới phụ nữ có người đi tiểu đứng thật là đáng cười vô cùng.”

 

Nay ta xem lại việc tắm rửa của dân tộc ấy thời xưa để rồi lien tưởng đến dan mình cung thời.

"Xứ này nóng dữ dội, người ta không thể nào chịu nổi một ngày mà không tắm nhiều lần. Ban đêm cũng vậy, người ta không thể nào không tắm một hoặc hai lần. Không có nhà tắm, không có thau, không có thùng nhưng mỗi gia đình có một cái ao, nếu không hai hay ba gia đình xài chung một cái. Tất cả đàn ông và đàn bà vào tắm trần truồng, chỉ khi nào cha mẹ hoặc người lớn tuổi ở trong ao thì con trai, con gái hoặc người trẻ tuổi không vào. Khi bọn trẻ ở trong ao thì người lớn tránh ra nhưng nếu cùng một tuổi thì người ta không chú ý; đàn bà che chỗ kín bằng tay trái trầm mình xuống nước và thế là hết.

Luôn luôn ba hay bốn, năm hay sáu ngày, các phụ nữ trong thành phố đi từng đoàn ba hoặc năm người ra khỏi chợ tắm dưới sông. Đến bờ sông, họ cổi miếng vải quấn ngang mình rồi đi xuống nước. Hàng ngàn người tựu họp dưới sông như thế. Cả đến các bà thuộc gia đình quí phái cũng tham dự vào và không có ý thẹn thùa chút nào. Mọi người đều có thể ngắm họ từ đầu tới chân. Trên giòng sông lớn ngoài thành phố, không ngày nào không có cảnh ấy. Người Trung-Hoa vào ngày rảnh rỗi thường hoan hỉ đến đây xem chơi cho vui. Tôi nghe nói có kẻ lặn dưới nước thừa cơ hội làm xằng.

Nước luôn luôn nóng như ở trên lửa, chỉ đến canh năm mới mát một chút, nhưng khi mặt trời mọc thì nóng lại như thường."

 

Cuối cùng ta hãy xem một đoạn văn viết về sự đi lại của nhà vua:

“Tôi nghe nói rằng dưới triều các Vua trước, dấu bánh xe của các Ngài không bao giờ in khỏi cửa cung, đó là để đề phòng những trường hợp bất trắc. Tân Vương là rễ của nhà Vua trước. Xưa kia, Ngài giữ chức chỉ huy quân đội. Ông cha vợ thương con gái, đứa con gái ăn cắp cây gươm vàng  của cha đem cho chồng. Người con ruột sau nầy không được lên ngôi. Ông ta âm mưu chiêu mộ quân sĩ nhưng Tân Vương biết được bắt chặt ngón chân và nhốt trong ngục tối. Trên thân thể Tân Vương có khảm  một miếng sắt thiêng dù dao và tên chạm vào cũng không thể gây thương tích. Tin chắc như vậy nên Ngài mới dám ra khỏi cung.

Tôi ở trong nước hơn một năm và tôi thấy Ngài đi ra bốn hay năm lần.

Khi nhà Vua du hành, quân đội đi đầu để hộ tống, kế đến là cờ của kỵ binh, cờ hiệu, giàn nhạc. Các thị nữ trong cung từ ba đến năm trăm, mặc hàng vải thêu cành lá, dắt bông trên đầu tóc, tay cầm đèn cây, họp thành một toán riêng, mặc dù giữa ban ngày đèn cầy vẫn đốt cháy. Tiếp đó là các thị nữ bưng vật dụng của nhà Vua bằng vàng, bằng bạc, và tất cả bộ đồ trang hoàng với kiểu mẩu hết sức đặc biệt mà tôi không biết cách dùng. Kế đến các thị nữ cầm khiêng, vác giáo là đoàn canh phòng riêng biệt trong cung; các thị nữ này cũng họp thành toán riêng. Tiếp theo là xe do dê kéo, xe ngựa tất cả đều trang hoàng bằng vàng.

Các quan, các vị Hoàng Thân đều cởi voi, trước mặt quí vị người ta thấy những cây lọng đỏ của quí vị từ xa, nhiều vô số.

Sau quí vị là các bà vợ và cung phi của nhà Vua ngồi kiệu, ngồi xe, cởi ngựa, cỡi voi, các bà có hơn trăm cây lọng thêu chỉ vàng lóng lánh. Sau quí bà là nhà vua đứng trên lưng voi, tay cầm gươm báu. Ngà voi cũng đuợc bọc trong bao vàng. Có hơn hai chục cây lọng trắng thêu chỉ vàng lóng lánh và cán bằng vàng. Rất nhiều voi đi xung quanh Ngài và có thêm toán quân lính hộ vệ Ngài.

Nếu nhà Vua đến một vùng láng giềng, Ngài chỉ dùng kiệu vàng do các cung nữ khiêng.

Thường thường Ngài ra ngoài để viếng ngôi tháp vàng nhỏ, trước tháp có một tượng Phật vàng. Người nào thấy nhà Vua phải quỳ gối và dập đầu xuống đất, người ta gọi đó là "tam bãi" (san-pa), nếu không họ sẽ bị các ông thầy lễ bắt mà không khi nào được tự do không.

Mỗi ngày, nhà Vua thiết triều hai lần để xét đoán các việc quốc gia. Không có giấy tờ, công văn qui định. Công chức hoặc dân chúng muốn triều kiến nhà Vua đều ngồi dưới đất chờ. Một lát, người ta nghe một điệu nhạc văng vẳng trong cung và ở ngoài người ta liền thổi vỏ ốc  như đón chào nhà Vua.

Tôi nghe nói rằng nhà Vua chỉ ngồi trên một cái kiệu vàng đến đó. Ngài dừng lại cách xa chúng tôi. Lát sau, người ta thấy hai cung nữ đưa ngón tay thon nhỏ vén màn, và nhà Vua tay cầm gươm xuất hiện đứng trong cửa sổ vàng. Các quan và dân chúng chắp tay, dập đầu xuống đất. Khi tiếng vỏ ốc ngừng thổi, họ mới có thể ngửng đầu lên. Liền khi ấy, nhà Vua ngồi xuống. Nơi Ngài ngồi có một miếng da sư-tử là bảo vật của Hoàng triều truyền lại. Khi các việc thương nghị chấm dứt, nhà Vua trở về cung, hai cung nữ bỏ màn xuống, mọi người đứng dậy. Theo đó, người ta thấy rằng mặc dầu là một nước man rợ, những người nầy không phải không biết thế nào là một vị Quốc Vương.”

Cũng ở phần văn hóa, ông Nguyễn Hiến Lê viết trong quyển Đế Thiên Đế Thích tả lại một cảnh đi coi hát Miên như sau: “Khi màn cuốn, non hai chục đào kép xếp hàng theo hình bán nguyệt, đào một bên, kép một bên, cúi đầu chào khan giả, bài hát Madelon rồi mới bắt đầu diễn. Nghệ thuật của họ cũng phảng phất như nghệ thuật hát bộ của ta. Quần áo của họ cũng như quần áo thường của người Miên nhưng hào nhoáng hơn, tuy không sạch hơn. Nhiều đồ rách vá.”