Sunday, December 28, 2014

Những Ngày Không Mặt Trời- Bài 15


Kể từ khi ấy, lòng tôi chỉ chờ mong đến ngày học Anh văn kế tiếp, để được ngắm nhìn người con gái yêu kiều mà tôi đặt tên cho nàng là “tử y cô nương” (cô gái áo tím) đó.

Hai hôm sau, lại có giờ Anh văn, tôi đứng ngồi không yên chỉ mong cho trời chóng tối. Tôi ra dự lớp ngay từ khi bắt đầu, nhưng lớp đã khởi sự được mươi phút mà hình bóng An không thấy đâu cả. Tôi chỉ cầu mong vì một lý do gì đó mà An đến trễ. Cái kim chỉ phút của chiếc đồng hồ treo từ từ từ nhúc nhíc từng phút, nhưng hình ảnh tử y cô nương vẫn chưa thấy đâu. Lòng tôi như lửa đốt! Hai mươi, ba mươi phút lặng lẽ, nặng nề trôi qua mà hình bóng nàng vẫn không xuất hiện. Cái hy vọng đó biến đi khi lớp học tan.

Tôi lấy xe đạp của bố, lái loanh quanh thành phố với hy vọng bất ngờ thấy bóng "tử y cô nương" đó. Tôi đoán: “hôm trước, nàng đi bộ đến học, vậy chắc nàng nhà không xa lắm.” Tuy nhiên, đạp đã hết cái thành phố cỏn con ấy mà chẳng thấy nàng đâu cả. Lúc trở về góc đường Lý Thường Kiệt, Phan Thanh Giản (Lý Tự Trọng ngày nay) nơi có một đội mô tô bay đang biểu diễn, tôi gặp Nhung Tỳ, một người bạn cùng lớp. Thật ra tên hắn là Nhung, nhưng chắc có lý gì đó mà các bạn đặt hắn là Nhung Tỳ. Nhung tuổi chắc hơn tôi một tuổi.

Tôi dừng xe nói chuyện với hắn.

Sau một hồi trò chuyện, tôi hỏi:

- Nhung, trước kia bồ cùng học một lớp với Thanh, Tỵ, Két, Đoạn phải không?

- Ừ! Chuyện gì vậy?

- Nhung, bồ có nhớ một người tên An, trước kia cùng học với bồ và Thanh không?

- Có chứ! Hai ngày trước, tôi thấy cô ta mặc áo dài tím đi với một người thanh niên trẻ, chắc là bồ cô ấy. Hai người đi trên đoạn đường này về phía nhà Hiệp, lúc chiều tối. Bộ Hiệp quen với An hả?

Tôi ấp úng:

- Không! Nhưng...nhưng...

Nhung nhìn tôi, phá lên cười ha há:

- Hiệp, bồ bị tiếng sét rồi! Đừng có ngu nhe. Hàng tá người, có chức vị, theo cô ta đó. Bồ có nằm mơ không?

Tôi cũng công nhận điều Nhung nói đúng, tuy nhiên lòng tôi thấy buồn vô hạn. Có lẽ tôi đã yêu thầm người con gái đó mất rồi. Qua lời Nhung, một điều làm tôi biết chắc chắn là An mà thầy T đã đề cập và An tôi mới biết chỉ là một. Như vậy tình tôi chỉ là con đường một chiều. Thầy tôi cũng yêu cô ta thì tôi chỉ là một miếng giấy lộn trong xọt rác.

Thời gian trôi qua, tôi không nhìn thấy người con gái áo tím nữa. Cho đến một hôm, Súy đến rủ tôi đi đánh vũ cầu ở trường, vì giờ hai giờ đầu chúng tôi được nghỉ. Khi đang đánh, tôi thấy một ông già đi vào trường, theo sau là một người con gái. Vì cái nón che khuất mặt cô ta, nên tôi không biết được cô ta là ai, song với cái mũi dọc dừa, cùng dáng dấp thướt tha ấy làm tôi đoán chính nàng là An. Như vậy An đang đến ghi tên học. Theo như thầy T, An xin học lại lớp đệ tứ và hôm trước nàng đến nhà tôi học Anh văn, như vậy chắc chắn nàng sẽ học chung với tôi sau này, vì trường chỉ có hai lớp đệ tứ: một Anh văn, một Pháp văn.

Tôi đứng suy nghĩ mà quên mất Súy đang giao cầu, và quả cầu đánh trúng đầu tôi mà tôi không đỡ.

Súy cười:

- Hiệp! Làm gì vậy?

Tôi chợt tỉnh:

- Không! Không có gì.

Nửa giờ sau, chúng tôi phải vào lớp học với thầy Hãn về môn lý hóa.

 

***

 

Một buổi sáng tuần sau, Nguyễn Đình Hùng đến nhà tôi, rồi chở tôi đi học với chiếc veloxolex của hắn (Cả trường chỉ mình Hùng có xe gắn máy mà thôi.) Hùng là người bắc di cư mới nhập học năm để tứ. Anh ta dáng người ẻo lả, tiếng nói nhỏ nhẹ và thường nói cho tôi nghe, anh ta là cháu ông tiến sĩ Nguyễn Đình Hòa. Hắn thân với tôi vì hắn học Anh văn tư của lớp mẹ tôi.

Khi xe đang chạy trên đường Lý Thường Kiệt, gần đến trường, tôi thấy nhiều nữ sinh học cùng lớp đang bao vây một cô khác ở sau lớp, cạnh ngay chỗ ngồi của tôi. Lớp tôi có cửa sau hướng ra đường này, nên tôi dễ dàng nhận ra chuyện trên. Tôi có linh cảm rằng một chuyện lạ đang xẩy ra ở lớp tôi, vì các bạn gái không bao giờ tụ tập ở đây, đó là phía ngồi của nam sinh.

Phút sau, chúng tôi đến phía sau lớp để khóa xe, và tôi nhận ra người đang bị bao vây kia chính là An. Tất cả nhóm đang nhỏ to vui vẻ thì bất chợt nàng quay nhìn về phía tôi, và các cô bạn khác cùng quay lại nhìn theo. Mấy cô gái cùng xù xì to nhỏ với nhau về một vấn đề gì đó, trong khi mắt vẫn dán vào tôi. Sự kiện đó làm tôi cảm thấy mắc cỡ, chân tay luống cuống, đi đứng thiếu tự nhiên. Tôi đã nhiều lần lên sân khấu, song chưa bao giờ tôi có cái cảm tưởng kỳ cục đó. Có lẽ nàng đang kiểm chứng lại xem tôi có phải là con bà giáo Anh văn hay không?

Hùng thấy vậy chọc:

- Hiệp, người đẹp trong mộng của cậu kìa.

Tôi không dám hé môi, lầm lũi về chỗ ngồi. Tôi không hiểu tại sao Hùng biết tôi thầm yêu cô gái áo tím ấy? Chắc hắn thấy tôi có thái độ khác thường từ ngày đầu tiên gặp nàng.

Vài phút sau, lớp học bắt đầu với môn công dân.  An không biết ngồi đâu, nên đành khép nép đứng ở cửa. Nàng cũng có vẻ thẹn thùng vì mấy chục cặp mắt cùng hướng về phía nàng. Có thể sắc đẹp của nàng đã làm các nam trong lớp say mê.

Thầy Mô nói:

- Để Thầy giới thiệu với các em. Đây là em An, một tân học sinh. Thôi, An vào tìm chỗ ngồi đi.

LỚP TÔI 

Lớp tôi hơn một nửa là trai và non nửa là gái. Lớp được chia làm hai dãy, con gái ngồi phần lớn các bàn đầu ở dãy bên trái và con trai ngồi bên mặt thêm vài bàn cuối phía trái. An loay hoay, rồi ngồi vô tình, hay hữu ý nàng chọn một chỗ ngồi đối xứng với tôi qua đường phân đôi của lớp.

An là một cô gái rất đoan trang, nàng chẳng bao giờ tiếp xúc nói chuyện với bất kỳ một nam sinh nào. Trong trường, rất nhiều nam sinh để ý đến nàng, và tìm cách nói chuyện hay chọc ghẹo, nhưng nàng luôn luôn phớt lơ tất cả. Trong số đó, phải kể tới hai tay anh chị trong trường; hai tên này nhiều lần đến mở cái cửa sổ, cạnh chỗ nàng ngồi, thò đầu vào nhìn nàng rồi cười hô hố. Hai tên này cầm đầu các tên khác trong trường, dùng khóa xích, chặn đánh các học sinh cao bồi từ các trường ở Sàigòn xuống. Vì các câu chuyện đánh nhau của tôi ngày trước, mấy lần, chúng cho người đến rủ tôi tham gia với nhóm chúng, nhưng tôi chối từ. Tôi đánh nhau vì bảo vệ bạn bè, danh dự, chứ tôi không thích dùng số đông đi ăn hiếp kẻ yếu, hay đánh vì một duyên cớ không chính đáng.

Kể từ ngày An vào học đã hơn một tháng, tôi chưa bao giờ nói chuỵên với nàng. Có nhiều lý do kiến tôi không dám gợi chuyện cùng nàng: lý do thứ nhất là vì tôi nhát, cứ mỗi lần đến gần nàng là tôi run bắn lên. Lý do thứ hai là vì nàng quá nghiêm trang, tôi chỉ sợ mới gợi chuyện nàng đã quay mặt đi thì chỉ còn nước độn thổ. Thứ ba là vì nhiều tay dao búa ngấp nghé nàng, tôi không muốn đánh nhau vì một cô con gái. Và cái lý do cuối cùng là theo lời Nhung nhiều người có địa vị xã hội và ngay cả thầy T cũng có thể ở trong danh sách các kẻ muốn chinh phục trái tim nàng.

Saturday, December 27, 2014

Đại Việt Thắng Nguyên Mông- Bài 77


E- Nhân hòa.

Nhà Trần đã làm gì để có Nhân Hòa? Như chúng tôi đã bàn trong mục công tâm, và việc này đã làm tăng tiến sự nhân hòa. Qua hai lần hội nghị Bình Than và Diên Hồng, quân dân một lòng chống ngoại xâm. Nhà Trần đã biết áp dụng yếu tố nhân hòa trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.

Tuy vậy đối với dân thì nhân hòa, nhưng nếu trong giới tướng lãnh mà không hòa thì cũng là một hiểm họa. Chuyện Mông Cổ đánh Nga và Hung Gia Lợi là các bài học quý giá.

Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải lúc trước không mấy hòa thuận. Trần Quang Khải thì làm tể tướng, trong coi mọi việc của triều đình. Lúc kháng Mông thì Hưng Đạo Vương làm tiết chế chỉ huy tất cả binh lực. Nêú Trần Quang Khải không nghe lệnh của Hưng Đạo Vương rồi muốn đánh lúc nào thì đánh, muốn đi đâu thì đi thì chẳng khác gì chuyện Nga, Hung và chắc Đại Việt đã không viết lên những trang sử có một không hai trên thế giới vào thế kỷ XIII.

Câu chuyện dưới đây cho ta thấy một may mắn khác của Đại Việt. Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư, trang 50, viết : “Quang Khải có học thức, hiểu tiếng nói của các phiên. Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo:

"Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".

Quốc Tuấn trả lời:

"Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn"…

Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:

"Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:

"Hôm nay được tắm cho Thượng tướng".

Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho".

Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.”

Giả sử Hưng Đạo Vương là người ham quyền thì làm nhận chức tư đồ thì sao hàn gắn được mối quan hệ và cùng chung lưng đấu cật chống ngoại xâm.

Nhân hòa lo chống giặc ở đời nhà Trần không phải chỉ có đám mày râu, mà còn cả trong giới hồng quần. Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư, trang 18, viết về bà hoàng hậu họ Trần lấy vua cuối nhà Lý như sau: “Trần thị được gọi là quốc mẫu vì đó vốn là hiệu của Ngô phu nhân trước kia, tức là hoàng hậu. Thái Tông thấy Linh Từ đã từng làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông, không nỡ gọi là công chúa, cho nên phong làm quốc mẫu, cũng là biệt danh của hoàng hậu. Xe kiệu, mũ áo, quân hầu của bà đều ngang với hoàng hậu.

Đến khi người Nguyên tắt đường vào cướp, kinh thành thất thủ, Linh Từ ở Hoàng Giang, giữ gìn hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con các tướng soái thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền các nhà chứa giấu quân khí đều đưa dùng vào việc quân. Công của bà giúp nhà Trần trong việc nội trị thì nhiều mà phần báo đáp nhà Lý thì không được bằng. Thế mới biết trời sinh Linh Từ là để mở nghiệp nhà Trần. Việc thì giống như Đồ Sơn dấy nhà Hạ, mà đức thì không giống. Đạo biến của trời như thế đấy, huyền vi thay!”

Ngược lại, Nguyên Mông đã bị tội xâm lăng dân không ưa, mà Thoát Hoan còn sai Ô Mã Nhi đi ăn cướp lương thực thì làm sao để tạo nhân hòa?

Ai thắng ai thua trong « Nhân Hòa » đã thấy rõ. Đại Việt được 2 điểm.

F- Chiến Thuật.

Trước khi quân Nguyên Mông tràn sang, Hưng Đạo Vương cho ra tập Binh Thư Yếu Lược của ngài để các tướng cùng thông hiểu các mưu lược giết giặc. Tiếc rằng cuốn binh thư ấy không còn nên muốn tìm hiểu chiến thuật của Hưng Đạo Vương thì ta hãy xem lại lời đối đáp của Ngài với Vua Anh Tông khi nhà vua lại thăm lúc Ngài sắp lâm chung. Nhà vua hỏi làm sao có thể chặn MC, nếu chúng xâm phạm bờ cõi lần nữa? Ngài đáp lại mấy điểm chính sau:

1/ Theo kế hoạch của Triệu Đà, đốt phá sạch ruộng đồng. Như vậy ngài áp dụng việc “Công Lương” nhất định không cho giặc cướp lương từ nhân dân. Trận Vân Đồn lại chứng tỏ rằng Hưng Đạo Vương triệt để chú trọng đến lương thực của địch.

2/ Đánh úp sau lưng giặc. Ngài áp dụng mưu kế mà các nhà quân sự Tôn Tử, Ngô Khởi, Khổng Minh, Bạch Khởi, Tôn Tẫn… đã bàn. Trong chiến thuật việc mình phải chủ động trong việc dàn binh của địch rất quan trọng. Khi mình chi phối được mức đóng quân của địch, thì ta dễ dàng hơn trong việc tấn công hay tránh né. Nếu quân ta ít, yếu mà dịch mạnh thì ta tránh trấn công. Nếu địch thưa yếu hơn ta thì ta đánh. Hưng Đạo Vương đã chủ động trong việc này. Tong quyển Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn, trang 280 có ghi: “Ngày 23 tháng chạp, quân của tham chính Phàn Tiếp theo Thoát Hoan đánh Bắc Giang. Quân ta ngăn sông, chống giữ không lại.  Thủy quân Mông Cổ vào được sông Cái (sông Hồng), quân ta rút lui.….Ngày 28 tháng chạp, bọn phản quốc Lê Tắc cũng theo sát gót Mông Cổ, nhưng đi sau vì phải lưu lại châu Tư Minh. Lê Tắc dẫn bọn Sảnh-đô-sự Hầu-sư-Đạt, vạn hộ họ Đạt, thiên hộ họ Tiêu, đem 5000 quân từ châu Tư-Minh lục tục tiến theo đại quân Thoát Hoan. Chúng phá ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn), tiến chiếm sông bằng (thuộc địa phận Cao Bằng), ngảnh lưng về phía nước ta mà bày trận. Quân ta chống trả mãnh liệt, tên thuốc độc bắn như mưa; lửa cháy ngất trời. Đến canh năm giặc thua và tan vỡ, Hầu sư Đạt tử trận…

Ở phần trên, ta đã thấy gì? Nhìn vào bản đồ ở phần các trận đánh Đại Việt thì Nội Bàng ở sau lưng Thăng Long kể từ biên giới đến. Các phần này cho ta thấy Hưng Đạo Vương vẫn cho quân đánh phá sau lưng địch, vì Phàn Tiếp, Thoát Hoan đã đến sát Thăng Long mà đám người của Lê Tắc chưa đến Nội Bàng là ở phía sau. Hơn nữa, số quân không phải là nhỏ vì muốn đánh bại đạo quân 5000 người thì quân ta phải đông hơn nhiều. Với số quân Đại Việt đông như vậy thì quân Nguyên phải dàn quân nhiều nơi để bào vệ lẫn nhau.

Trang 209: “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của ông Hà Văn Tấn và bà Phạm Thị Tâm cũng viết lại các hoạt động tương tự:

Nguyễn Lộc trước đây hoạt động ở vùng Thất-nguyên (Tràng-định), Vĩnh-bình (Cao-lộc), thì nay mở rộng phạm vi khắp vùng Lạng-sơn.[1]” Quyển sách cũng đề cập các trận đánh của Nguyễn Thế Lộc (Nguyễn Lộc) và Nguyễn Lĩnh vào các toán Việt gian ở phần phụ lục trang 210.

Đến trang 221 quyển ấy lại viết:

“Tháng tư âm lịch (tháng 5-1285), Thoát Hoan sai Mang-lai Xi-ban (Manglai Shiban) đưa bọn Việt gian Trương-hiến hầu Trần Kiện, Văn-nghĩa hầu Trần Tứ Hoãn và em hắn là Minh thành hầu, con của Chiêu-quốc vương Trần-ích-Tắc là Nghĩa-quốc hầu cùng với gia thuộc hắn về Trung Quốc. Khi chúng đia qua Lạng Sơn, đội dân binh người Tày do Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh chỉ huy, phối hợp với cánh quân Trần ở địa phương đã tập kích bọn chúng ở trại Ma Lục vùng Chi Lăng. Bọn Việt gian và đoàn quân hộ tống của Mang-lai Xi-ban (Manglai Shiban)bị vây đánh cả ngày lẫn đêm.”[2]

Việc dặn quân lính rút vào rừng đánh úp sau lưng giặc là áp dụng chiến thuật du kích, cấm không được hàng giặc. Vì chiến thuật này bắt giặc phải phân tán lực lượng, ra một vùng rộng lớn làm sức giặc yếu đi. Lắm khi, chẳng có người lính nào của ta ở một thị trấn, nhưng Mông Cổ vẫn phải cắt quân canh chừng. Nguyên sử viết về Đại Việt chiếm lợi địa, dùng du kích chiến: “Họ giữ nơi hiểm yếu chống cự, đều có nhà kho để cất chứa đồ áo giáp của quân sĩ. Họ bỏ thuyền lên bờ, quân giống như dân chúng, Nhật Huyên dẫn họ hàng, quan lại đến Thiên Trường, Trường An đóng đồn tụ họp, Hưng Đạo Vương, Phạm Điện Tiền đem thuyền quân lại tụ hợp ở cửa sông ở Vạn Kiếp, Nguyễn Lộc trú ở phía tây lộ Vĩnh Bình.” (Tích Dã dịch)

Một đoạn khác Nguyên sử ghi như sau: “Nhật Huyên đến cửa biển An Bang, bỏ thuyền, đồ áo giáp, binh khí, chạy vào ẩn náu ở rừng núi.” Trong quyển của ông Tấn trang 206 cũng có ghi: “Nhưng trên một miền đất rộng lớn đó, địch không thể có quân rải cho đủ và ngay ở vùng chiếm đóng được, chúng cũng không thể kiểm soát nổi.

Sau này, đến cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Minh cũng cho đánh du kích khắp bán đảo Đông Dương khiến Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó. Sau đó, họ dùng chiến thuật công đồn đả viện, làm Pháp đem binh đi cứu nơi bị nguy rồi chui vào ổ phục kích. Lúc thượng Lào bị tấn tấn công liên miên, nhờ vào đoàn tiếp vận từ Liên Khu Tư (Thanh, Nghệ, Tĩnh) qua Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, rồi vào lòng chảo Điện Biên Phủ qua Lào. Pháp quyết định thả 6 tiểu đoàn dù xuống lòng chảo này để chặn đường tiếp vận của Việt Minh. Rồi từ đó sinh ra trận Điện Biên Phủ khốc liệt.

Hiện nay, quân Mỹ với vũ khí tối tân, hùng hậu đã vào Iraq và Afganistan dễ dàng, nhưng quân họ phải trải quá rộng để kiểm soát được hết lảnh thổ hai nước này. Tuy nhiên, họ cũng đang bị chiến thuật du kích làm tổn hại và chẳng hiểu hết quả có được như họ mong muốn không?

3/ Chiêu mộ nhân tài. Ngài đã áp dụng cách tuyển quân, chọn tướng trong binh pháp. Đánh thắng giặc là chọn người tài bất luận nơi nào, không nhất thiết là người của hoàng tộc, mà Thương Ưởng nhà Tần đã làm cho nước này hùng cường. Thời nhà Trần ta thấy rất nhiều tướng lừng danh không phải từ dòng dõi vương triều ra như Lê Phụ (Lê Phụ Trần), Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Trần Bình Trọng, Nguyễn Lộc, Nguyễn Khoái, Nguyễn Khả Lập, Nguyễn Xuân…

Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư, trang 5,  chép: “ Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một mối.” Khi Trần Khánh dư đánh nhau với Trương Văn Hổ, quân sĩ đội nón Ma Lôi. Vậy chắc có thể Ma Lôi sau này làm tướng dưới quyền của Trần Khánh Dư.

Không phải chỉ nhà vua chiêu tập nhân tài, mà chính bản thân Hưng Đạo Vương cũng có nhiều nhân tài, hiền đức phù tá như Trương Hán Siêu, Dã Tượng, Yết Kiêu.

4/ Chinh phục nhân tâm. Ngài đã áp dụng “Công Tâm- Nhân Hòa” trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Không thành trì nào vững hơn lòng dân, đúng như Ngô Khởi đã nói với Ngụy Vũ Hầu lúc đi chơi thuyền. Các việc này chúng tôi đã phân tích trong công tâm và nhân hòa.

5/ Đắp lũy xây thành. Ngài đã chọn ưu thế về địa lợi. Ta không nên hiểu hạn hẹp thành là thành trì, nhiều khi thành mà chẳng thấy hào sâu, tường cao. Vì vậy mấy lần, ngài đều bỏ thành Thăng Long chạy vào Yên Trường và Thanh Hóa, những nơi có núi cao ruộng sâu. Vậy ngài đã dặn chọn nơi rất khó khăn cho giặc tấn công làm thành trì. Nếu quí vị đã đến vùng núi Tam Điệp, Tam Cốc- Ninh Bình giáp Thanh Hóa thì thấy nơi đây núi non trùng điệp, chung quanh là đồng sâu. Kị binh vào đây thì không di chuyển được. Bộ binh vào đây chỉ làm mồi cho tên độc, khi phải đang lội nước quá đùi. Vì vậy, Ngô Văn Sở đã rút về đây chống quân Thanh. Có thể Trần Quang Khải cũng làm như vậy, vì sử chỉ nói sơ rằng ông rút qua Thanh Hóa đóng quân khi Toa Đô làm tiệc chiêu an ở Thanh Hóa.

Ta cũng không quên trong lần kháng Nguyên thứ 2, Hưng Đạo Vương đã rút về Vạn Kiếp. Tại sao vậy. Chính cũng vì địa lợi. Ta hãy xem Lê Tắc tả lại vùng này trong quyển An Nam Chí Lược như sau: “Trở mặt ra một con sông lớn, sau lưng có núi muôn trùng, rừng rậm tre cao,dưới nước trên cầu, phong cảnh rất đẹp. Hưng-Đạo-Vương đã từng ẩn ở trong ấy.[3]

6/ Lấy đoản chống trường. Ngài đã áp dụng lấy cái ưu điểm của mình chống lại cái khuyết điểm của địch. Trong nghĩa đen thì quả thật lấy dao ngắn chống thương dài, nhưng chống ở chỗ nào thì mình mới thắng? Trên một bãi cỏ cho một người cầm thương một người cầm đao cụt, rồi cho đánh nhau thì kẻ cầm thương có lợi thế. Người cầm đao nếu không vào sát được đối thủ thì thấy từ chết tới bị thương. Vậy người này phải đánh cận chiến, lúc ấy trường thương thành vô dụng. Một cách thứ hai để người cầm đao nắm được phần thắng là dụ đối phương vào nơi chật hẹp, hay rừng cây rậm rạp, để đối phương khó lòng múa được thương dài của hắn.

Tuy nhiên, đây không có nghĩa là lấy dao ngắn chống thương dài, mà có nghĩa là tùy vào từng môi trường, tùy hoàn cảnh, đem chiến thuật để chống giặc. Dù là mình người yếu; lính giặc mạnh; ngựa mình nhỏ; ngựa giặc to; kiếm mình ngắn; đao giặc dài, nhưng với những khôn kéo, mưu lược mình vẫn khắc chế được địch quân.

Lúc quân địch tràn sang với khối người vài chục vạn tập trung vào vài mũi dùi, quân mình không thể chống nổi. Đó là đoản chống trường không lợi. Hưng Đạo Vương cho tản ra và địch cũng tản ra. Bây giờ thì mình lại tập trung ở điểm nào đó, trong khi địch không tập trung nổi vì lo duy trì an ninh nơi mới chiếm, rồi mình tấn công. Đó chính là điều Hưng Đạo Vương muốn.

7/ Lấy kiên nhẫn cẩn thận mà chống mau lẹ vũ bão. Đây ngài khuyên là phải lựa chọn đúng thời gian, không nên hấp tấp. Thấy giặc mới vào đem tất cả binh lực ra chống, rồi đến lúc rút thì không còn bao nhiêu quân. Ấy chính là một lầm lẫn. Cứ để cho giặc tiến vào với một nhịp độ để ta rút lui, đợi thời cơ. Đó chính là một áp dụng mà Khương Tử Nha đã nghĩ tới. Viết lại tư tưởng ấy của Khương Thượng sách Lục Thao ghi: “Người thiện chiến ở không rối loạn, thấy có thể chiến thắng thì tiến lên, thấy không thể chiến thắng thì dừng lại. Người thiện chiến thấy điều lợi không để mất, gặp thời cơ không nghi ngờ,”[4]

Đây có thể nói là một tuyệt chiêu đối phó với Mông Cổ, vì chiến thuật của họ là tốc chiến tốc thắng. Hưng Đạo Vương không cho họ làm điều này. Nếu quí độc giả đã đọc qua sử, nhất là quyển “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của ông Hà Văn Tấn và bà Phạm Thị Tâm thì sẽ thấy lúc đầu quân Mông đánh nơi nào cũng thắng còn ta lúc nào cũng thấy lui. Trong sử không ghi nhưng chắc chắn rằng nhiều nơi địch đến thì chẳng thấy sự chống cự nào. Ngày này sang ngày kia, làm tinh thần hồ hởi của giặc sẽ nguội dần, rồi những yếu tố khác như thời tiết, đất đai lầy lội làm chúng chán nản. Tóm lại đây là chiến thuật lấy diên trì chống mau lẹ vậy.

 Ngoài ra Mông Cổ cũng nổi tiếng về chiến thuật giả thua rút lui. Nhưng khổ một cái, người rút lui đây lại là quân Đại Việt, nên cái chiến thuật ấy bị bẻ gãy. Lúc Mông Cổ rút lui thật thì chúng không làm được chuyện phục khích như đã phục kích quân Georgia hay liên quân Nga mà trái lại Hưng Đạo Vương đã cho bố trí phục kích trước. Đại quân ta cũng đuổi theo địch, nhưng đây chỉ là đuổi để xua các con mồi vào bẫy, tợ như quân Mông Cổ tập dượt săn tập thể. Đây phải chăng là đòn “Gậy Ông Đập Lưng Ông” của Cô Tô Mộ Dung trong Thiên Long Bát Bộ mà Kim Dung viết hay không?

Các điều này thật là đúng với nguyên tắc chiến thuật và chiến lược, tợ như một võ sĩ đang lên đài, chỉ khác một điều là mỗi bộ phận, mỗi một sợi gân của người võ sĩ chính là một người quân trong đội ngũ. Sự khỏe mạnh, vũ bão chưa chắc đã là sự tất yếu để thắng đối phương. Vì thế ta thường thấy các phái võ vẫn thường nhắc nhở lấy nhu chống cương; lấy hòa hoãn bình tĩnh chống vũ bão; lấy sự mau lẹ chống sức mạnh…Cũng trong thời Mông Cổ hoành hành tại Trung Quốc, ở núi Vũ Đương bên Trung Hoa, một nhân tài võ học ra đời: Trương Tam Phong. Ông là người lập ra môn phái Vũ Đương và sáng chế ra Thái Cực Quyền chỉ lấy sự bình tĩnh, ôn nhu để khắc chế cương cường là vì lẽ đó. Nếu quý vị đã đọc bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Ỷ Thiên Kiếm- Đồ Long Đao) của Kim Dung chắc quý vị không khỏi không thán phục cái triết lý võ thuật của nhân vật này.

Nói đến điểm vũ bão, mau lẹ ta thấy Mông Cổ có chiến thuật tấn công rất hay. Nhưng cái chiến thuật này chỉ hữu hiệu với cả hai cùng lấy cương chống cương, lấy vũ lực chống vũ lực, cùng địa thế thuận tiện cho kị binh. Nếu một nhà lãnh đạo ỷ vào binh hùng, tướng mạnh mà đi xâm lược nước khác không nghiên cứu rõ về hình thể đất đai, khí hậu, phong thổ cùng văn hóa tập quán nước đó thì chưa phải là tướng tài. Điều này đã thể hiện ở binh chủng các nước ngày nay. Tùy theo địa thế khí hậu mà họ tổ chức các binh chủng TQLC, nhảy dù, Biệt Động Quân, Biệt Kich…để ứng chiến có hữu hiệu.

Ta hãy xem Hưng Đạo Vương và các tướng của Đại Việt áp dụng chiến thuật lấy kiên nhẫn, cẩn thận để chống nhanh chóng, vũ bão như thế nào.

Khi Mông Cổ mới sang, chúng tiến nhanh như vũ bão, Hưng Đạo Vương chỉ chống đỡ cầm chừng, rồi rút lui theo kế hoạch mấy lần rút về Thanh Hóa chính là vì chiến thuật đó. Đợi khi giặc mỏi mệt, chán nản Ngài tung hết lực lượng ra đánh.

Có người sẽ hỏi lấy gì làm bằng cớ sự rút lui này một chiến thuật? Xin thưa rằng nếu không có chuẩn bị kế hoạch rút lui thì không thể tập trung quân  nhanh chóng và đông đảo để phản công. Trong quyển Việt Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn trang 261-262 (lần I) viết: “…Giặc không tiến được núi Khưu Cấp phải qua ải Khả Lợi (Lạng Sơn) kéo xuống. Cánh quân Đông Đạo của Tản Lược Nhi lúc này vượt được ải Khả Lợi…

Hưng Đạo Vương chống nahu với Thoát Hoan ở ải Nội Bàng ngày 27 tháng chạp năm Giáp Thân (1284). Thế giặc mạnh quá ngài phải chạy về đóng ở Vạn Kiếp, chuẩn bị cho cuộc phản công…

…Ít lâu sau, Khả Lợi và Lộc Châu thất thủ, Việt quân phải rút về Chi Lăng (Hải Dương)…

Vua Nhân Tông được tin Hưng Đạo Vương lui quân khỏi Lạng Sơn liền xuống thuyền nhỏ ra ra Hải Đông (Hải Dương) triệu Hưng Đạo Vương đến. Nhân Tông nói: “Thế giặc lớn như vậy, chống với nó e dân sự sẽ tàn hại hay là hàng chúng để cứu dân?”

Hưng Đạo Vương khẳng khái trả lời: “Bệ hạ vì lòng thương dân mà nghĩ như vậy nhưng tôn miếu và xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi trước đã.


Hội nghị quân sự ở Vạn Kiếp. Hội nghị này họp để chỉnh bị lại hàng ngũ…Quân các lộ, các xứ tập hợp lại và chiêu mô thêm vẫn đủ được 20 vạn…”  

Từ tháng chạp rút chạy mà phản công là tháng giêng tại Bình Than với số quân đến 10 vạn thì cuộc họp quân trên chỉ vào cuối tháng chạp. Đây là thời gian rất ngắn mà ta vẫn có đến 20 vạn quân thì sự rút lui có kế hoạch mới làm được như vậy.Đ8HN

 

Lúc Ô Mã Nhi được lệnh đi đón thuyền lương Trương Văn Hổ (theo Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn) Trần Khánh Dư ra sức cản, nhưng bị thua. Ô Mã Nhi gặp được thuyền lương của Hổ thì quay về. Khi hắn qua đây lần thứ hai, ông biết đánh cũng sẽ thua, nhưng cái quan trọng là lương thực ở sau. Vì thế, ông cứ để Ô Mã Nhi đi qua dễ dàng. Với chiến thuật này làm Ô Mã Nhi, thêm tự tín, nghĩ rằng quân Đại Việt tan rã rồi, nên chẳng cần hộ vệ, mà cứ thẳng tiến về đánh quân ta ở nơi khác. Rồi kết quả là như ta đã thấy.

Trần Quang Khải được nhiệm vụ trấn thủ ở Nghệ An, Thanh Hóa chặn đường tiến quân của Toa Đô. Khi thấy thế giặc mạnh ông rút quân vào vùng hiểm trở cố thủ. Toa Đô ra đến Trường Yên (Ninh Bình) đóng trại. Khi nghe tin hai vua đã vào Thanh Hóa, Thoát Hoan ra lệnh cho Toa Đô quay lại nơi ông ta đã qua. Ông ta nghĩ rằng rất dễ để tiêu diệt quân ta, nhưng ông ấy đã lầm. Toa Đô vô được, nhưng ra không được vì bị phục kích, lại thêm khí hậu bắt đầu khó chịu. Vùng núi non đầm lầy giữa Thanh Hóa, Ninh Bình quả là những chiến lũy kiên cố. Ông ta đành kêu cứu, Ô Mã Nhi được cử vào nhưng rồi cũng sa lầy nốt. Chúng không thể nào bắt liên lạc với đại quân và phải xuống thuyền trở ra bắc. Để rồi về đến Tây Kết lại bị đẩy lui và kết quả một tướng bị chém đầu; một tướng bỏ chạy thẳng về Trung Quốc.

8/ Lấy mưu lừa địch.

Trong lần thứ nhất, quân Mông thua chạy qua Quy Hóa, chủ trại Hà Bổng dùng cách lừa giặc theo đúng như Tôn, Ngô chủ trương, đánh giặc không ngại chuyện lừa dối. Trang 26 của Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư  chép:

“Dụ binh giặc đến huyện Phù Ninh, viên phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc lên núi Trĩ Sơn cố thủ. Giặc đóng ở động Cự Đà. Hà Đặc lấy tre đan thành những hình người to lớn, cho mặc áo, cứ đến chiều tối thì dẫn ra dẫn vào. Lại dùi thủng cây to, cắm tên người lớn vào giữa lỗ để giặc ngờ là sức bắn khoẻ xuyên suốt được. Giặc sợ không dám đánh nhau với Đặc. Quân ta hăng hái xông ra đánh bại được giặc. Đặc đuổi đánh đến A Lạp, bắc cầu phao qua sông, hăng đánh quá bị tử trận. Em là Chương bị giặc bắt, lấy trộm được cờ xí, y phục của giặc trốn về, đem dâng lên, xin dùng cờ ấy giả làm quân giặc, đến doanh trại giặc. Giặc không ngờ là quân ta, do vậy ta cản phá được chúng.”

9/ Phân tán địch- Đánh tiêu hao.

Một chiến thuật của Hưng Đạo Vương áp dụng là phân tán lực lượng địch. Nếu địch quân đi đâu thì cả chục vạn cùng đi thì làm sao ta phá được chúng. Cách diệt được chúng là làm chúng phải phân tán lực lượng, cũng như chuyện Thành Cát Tư Hãn chia lực lượng 400000 quân của Muhammad làm vài chục đơn vị nhỏ, rồi đem 200000 quân của ông ta đánh. Ấy chính là chiến thuật bẻ bó đũa vậy. Muốn làm như vậy thì từ đầu ta đã chống cự, rồi rút. Sau đó đánh tỉa vài ba trận, như vậy địch sợ quân ta chỗ nào cũng có, nên phải phân tán bảo vệ.

Khi địch phân tán rồi, ta mới tập trung quân để đánh như đã nói trên. Nếu có tiếp viện ta lại dùng kế “công thành, đả viện.” Trường hợp địch cho nhiều nơi tiếp viện quân số lớn hơn ta thì lập tức, ta sẽ chĩa mũi dùi vào nơi giặc mới kéo quân đi. Đó lại chính là kế “Điệu hổ ly sơn”.

Bài viết trong Nguyên Sử cho ta thấy địch phân tán mỏng, chúng tôi xin nhắc lại: “Vạn hộ Lí Bang Hiến, Lưu Thế Anh đem quân mở đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, mỗi ba mươi dặm lập một trại, sáu mươi dặm đặt một trạm dịch, mỗi một trại một trạm dịch đồn trú có ba trăm người giữ gìn, tuần tra. Lại ra lệnh cho Thế Anh lập pháo đài, chuyên đề đốc trại, dịch trạm, công sự.” (Tích Dã dịch).

Cánh phương nam do Toa Đô chỉ huy cũng vậy, quân Nguyên Mông đã phải dựng các doanh trại để kiểm soát khu vực chúng mới qua. Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn trang 271 cũng ghi lại đoạn Toa Đô tiến quân từ Chiêm Thành ra Thiên Trường như sau: “Từ vùng Thanh Nghệ ra suốt khắp miền Trung Châu và dọc vịnh Bắc Việt thế giặc rất to, chỗ nào đồn ải của quân Nguyên cũng san sát. Thành Thăng Long cùng các trọng trấn đều có cờ Mông Cổ bay phất phới.

Bây giờ giả sử ở một châu nào đó chúng có 3000 quân đồn trú và được phân chia như trên ở 10 trại. Trong khi ấy lực lượng địa phương ta chỉ có 1000 quân. Ta phải đánh làm sao?

Tướng ta lấy 200 quân chia làm 10 toán, vậy mỗi toán có 20 người. Mỗi toán có nhiệm vụ quấy phá một trại; ban ngày lâu lâu bắn sẻ một tên lính canh. Ban đêm thì chỉ cần 4, 5 người cầm trống, mõ, phèng la, tù và thổi đánh ầm ĩ. Rồi nửa đêm bỗng đâu một mũi tên lửa làm cháy một lều.

Một trại tên Hắc Long, cũng có 300 quân đóng, ta đem 800 quân tấn công. Không cần đánh một trận để tiêu diệt địch mà làm chúng tổn thất. Vấn đề là quấy phá làm suy nhược tinh thần địch quân; lợi dụng thời tiết làm chúng mệt mỏi; dùng địa lợi phục kích để tránh hao tổn. Ban đêm thì dùng 200 quân khởi sự, còn ban ngày thì chọc phá do toán 20 người đã nói trên. Lẽ dĩ nhiên 600 quân luôn ở tư thế phục kích tại nơi có lợi. Chúng ở chỗ sáng, ta ở chỗ tối cứ bắn loạn xạ tên độc tên lửa, không ít thì nhiều làm tổn thất chúng. Sau đó, ta lại kéo đi khi trời chưa sáng. Ban đêm Nguyên Mông không dám ứng chiến mà chỉ phòng thủ.  Chúng dùng các súng phóng đá catapult  và trebuchet bắn bom, đạn ra. Nhưng khổ một nỗi, quân ta bò sát đất rồi xuất hiện bất ngờ, bắn một loạt 200 mũi tên rồi chạy đi. Khi đội pháo của địch tập họp đầy đủ để bắn trả thì quân ta rút mất rồi. Độ nửa canh giờ hay một canh giờ sau màn ấy lại tái diễn. Rút cục cả đêm chúng chẳng ngủ bao nhiêu. Đêm sau lại thay phiên. Đây chính là xa luân chiến, làm địch không được nghỉ ngơi, tinh thần hao tổn.

Một ngày nào đó tướng Nguyên Mông quyết định dùng 200 quân còn khỏe đi càn quét, vì 100 quân kia thì bịnh hoạn tại thời tiết hay bị thương vì tên, lao và một số nữa đã đi chầu diêm chúa. Tướng Mông lý luận, chúng chỉ đánh đêm vậy quân số không đông, nếu 2, 3 trăm thì không địch nổi với 200 tên lính to lớn lại có kị binh hỗ trợ, dù là mấy khẩu pháo catapult không thể đẩy theo đánh giặc này, vì đã tới mùa mưa, đất đai bùn lầy.

Ra khỏi trại một đỗi thì chúng thấy ruộng nước mênh mông; xa xa thấy khói và mươi tên lính Đại Việt đang cầm trống, tù và vừa bắn vừa lội nước bì bõm chạy. Vài tên lính địch khác thì chạy lăng quăng trên các bờ ruộng nhỏ xíu, khác hẳn với cái thảo nguyên mênh mông bát ngát. Kị binh được lệnh truy kích, nhưng khổ một nỗi khi ngựa xuống bùn thì không thể phi được mà lội bùn được vài chục thứơc thì còn đi chậm hơn con bò.

Chúng không biết rằng bàn chân ngưạ và bò bằng nhau, nhưng bàn chân ngựa chỉ có một móng trong khi bàn chân bò hai móng. Khi xuống bùn hai móng bò xòe ra làm diện tích tiếp xúc lớn, giảm áp xuất. Con ngựa vốn dĩ đã nặng hơn bò, lại thêm sức nặng của kị mã mà diện tích tiếp xúc nhỏ nên lún xuống sâu hơn. Vì vậy người ta mới dùng bò, trâu cày ruộng nước tốt hơn ngựa; ngựa chỉ cày ruộng cạn hay cỡi trên đồng khô. Chúng đành đuổi theo, nhưng phải bỏ ngựa và đi chân dễ dàng hơn.

Khi lội nước, bùn vài trăm thước, chúng mới nhận ra thân hình to lớn của chúng bất lợi, lội nước chậm chạp, trên đầu thì nóng như lửa làm mồ hôi nhễ nhại. Đôi dày da của chúng cũng quá bất tiện, vì khi đạp xuống rút lên thì chỉ còn cái chân không; chiếc dày vẫn còn nằm trong sình. Chúng lại phải dừng lại lôi chiếc dày lên; vừa nghỉ một chút thì thấy một đàn nhiều con vật nho nhỏ, dài ngoằng uốn éo bơi trong bùn đục ngầu tới, rồi bám vào chân hút máu. Chúng cố sức lấy tay kéo ra, nhưng túm vào không túm được, đúng là trơn như đỉa. Chúng hết hồn leo lên bờ, từ thủa cha sinh mẹ đẻ tới giờ chúng chưa bao giờ thấy con vật quái đản và nguy hiểm này. Lính Đại Việt lẽ dĩ nhiên cũng bị đỉa bám, song họ quen quá rồi và có một túi vôi nhỏ đeo bên hông, lôi ra, phết một chút là đỉa bỏ liền.

Cùng bất đắc dĩ, đòan lính Mông chia làm nhiều toán đi trên các bờ ruộng. Cái bờ ruộng thì quá chật so với thân hình chúng, nhưng cũng đành xếp hàng một tiến tới thận trọng không thì lại bị mấy con quái vật loăng quăng bơi trong nước tấn công. Bỗng đâu bên kia bờ ruộng, mấy tên lính Đại Việt đột nhiên nhô lên, dương nỏ bắn một lọat làm một lính Mông bị thương, rồi cắm đầu lội bì bõm chạy đi. Mấy tên khác loay hoay thì ngã tòm xuống ruộng. Đội thập phu lính Mông Cổ đứng đầu được lệnh đuổi theo. Chúng chạy trên bờ thì lẹ hơn, nhưng khổ nỗi đám lính Đại Việt chạy theo đường chéo của thửa ruộng nên đường ngắn hơn. Hơn nữa chân chúng ướt, đạp lên các cục đất sét trên bờ làm trơn như mỡ dội, nên chạy một quãng là có tên té lăn xuống ruộng. Tên này leo lên bờ thì cả khúc bờ ruộng lại trơn hơn. Chẳng còn cách nào khác, chúng cũng phải lội nước. Vì mấy tên MC to lớn nặng nề nên bùn lún sâu hơn nên chạy chậm. Đã thế mấy cái áo giáp da ngựa sang đây bị hấp thụ nước làm nặng nề và quá kín gió nên chúng chảy mồ hôi nhiều hơn. Kết quả đám địch quân chạy càng ngày càng xa.

Trên một bờ ruộng khác, tên lính chạy đầu tiên đột nhiệt thụt chân, rồi hét lên một tiếng đau đớn. Hắn đã sa vào một hầm chông; cây chông sắt xuyên qua bắp chân hắn đến đùi. Cả đoàn lính nhìn thấy cảnh này sợ hết hồn, vì đây là loại địch thủ không thấy được. Sau đó, toán lính Đại Việt này lại chạy về một lũy tre xanh và mất hút. Toán lính Mông hết còn dám chạy cho lẹ đuổi theo nữa.

Vào đến làng, chúng đã bở hơi tai, mà địch quân không biết chạy đâu mất. Đường đi nơi đây cũng không dễ dàng, chung quanh là tre gai, mây, song[5] toàn là gai chi chít. Một điều lạ là nhiều ngọn tre đã bị chặt hết cành nhỏ, chỉ còn trơ thân cây suôn đuột. Bỗng lại nghe oái một tiếng, chẳng biết trong bụi cây nào đó một mũi tên bay ra cắm vào tay một lính Mông. Tất cả đám lính Mông đứng nhìn quanh. Lại thấy một bụi cây nhúc nhích; lập tức cả vài chục tên dương cung nhắm chỗ bụi bắn tới một lớp mưa tên. Nhưng bụi lại nhúc nhích, chắc là tên địch bị thương. Ba, bốn tên lính Mông chạy lại bắt địch. Khi đến chúng chỉ thấy bụi cây lá to hơn gàn tay, lá hơi lông lông. Mấy tên này vạch bụi, nhưng chỉ thấy một sợi dây cột vào gốc cây, còn người không thấy đâu. Đột nhiên, mấy tên này cùng la lối um sùm, cởi áo, cởi quần, vừa nhảy vừa gãy khắp nơi, kêu la thảm thiết. Tất cả toán gần 200 tên Mông đứng nhìn sợ hãi, quên mất cái cảnh buồn cười của mấy tên bạn chúng trần truồng như nhộng, đang nhảy tưng tưng. Chúng không biết mấy tên này đã vạch cây lá han, một loại cây độc như cây mắt mèo ở miền nam.

Mặt trời lên đến đỉnh đầu, tướng Mông cho lệnh lấy đồ ăn trưa, nhưng lúc hành quân một số ngã xuống nước hay bị nước bắn lên làm lương khô thành lương ẩm, đã thế còn có mùi khai khai, thành ăn không đủ. Cả làng thì trống trơn, không tìm ra gạo đã đành, mà mấy luống khoai cũng đã bị đào lên trơ ra đám rễ non, nên cả đám lính Mông chỉ ăn cầm chừng.

Bây giờ chúng không dám coi thường ngôi làng yên tĩnh, vì chẳng biết đâu là hang rồng, hổ huyệt. Chúng thận trọng lục soát nhưng vẫn chẳng thấy ai.

Xế trưa, tướng Mông thấy lính hắn quá mệt vì thời tiết, vì lương thực thiếu, nên cho lệnh lui quân. Tất cả đám lính giặc mừng rỡ, khiêng mấy tên bị thương về trại. Chưa ra khỏi làng thì thấy các cây tre chung quanh bỗng cong xuống rồi bật lên bung ra những cục đá to như trái bửơi làm một số lính Mông vỡ đầu gãy tay. Cùng khi ấy chúng nghe tiếng hô như sấm của 800 cái miệng lính Đại Việt. Tiếng hô này vang đến trại của lính Mông cách xa sáu, bảy lý làm cả đám ở đó cũng hết hồn, huống hồ đám lính đang bị bao vây. Rồi sau bụi chuối, trên cây mít, dưới bờ ao đâu đâu cũng thấy lính Đại Việt dương nỏ bắn. Chúng dương cung bắn trả, nhưng chợt thấy rằng cung của chúng bỗng không đủ mạnh như trứơc, đã thế vài cái cung lại bị bung sừng, gỗ ra[6]. Trong lúc đang mong về nghĩ lại bị đánh bất ngờ đám lính Mông không còn tinh thần chiến đấu, đội ngũ lại bị phá vỡ vì đợt mưa đá vừa qua. Cả đám 200 quân Mông bị nghiền nát, nhưng tướng Đại Việt cố ý tha cho vài tên chạy thóat về trại; cung tên không còn, áo quần rách nát, mình mẩy chỗ đỏ, chỗ đen vết máu vì gãi.

Chúng đã rơi vào kế “điệu hổ ly sơn”. Quân Mông ở trại thì như hổ trong rừng mình đánh sẽ thiệt hại. Khi chúng rời địa bàn thì ta nắm địa lợi.

 Các vị nghĩ thế nào cho số phận gần 100 tên lính bịnh hoạn và bị thương kia?

Các trại khác cũng vậy, đêm này tháng kia, ta quấy phá liên miên; trời thì nóng nực; ngày cơm ăn thiếu thốn; tối ngủ không yên. Đồn này bị phá đêm trước đồn kia bị phá đêm sau. Chẳng bao lâu sau, các trạm khác nghe tin trạm Hắc Long bị tiêu diệt. Tháng sau đến phiên trại khác. Vậy chúng chỉ còn nước bỏ đất mà chạy về lại Trung Quốc mới yên thân.

Nói tóm lại Hưng Đạo Vương cũng như các tướng khác của ta đều là các tướng tài về chiến thuật.
Đại Việt thắng về “Chiến Thuật” với 2 điểm.




[1] Dịch theo Nguyên Sử.
[2] Trong cuốn sử của Lê Tắc, trang 109 do Viện Đại Học Huế dịch cũng viết lại biến cố đó như sau:Ngựa trạm đến ải Chi-Lăng, bị quốc dân ngày đêm vây đánh. Bọn Chương-Hiến cùng các quan bồi-bạn phá vòng vây chạy ra đàng trước, lại bị chúng đón đánh, xe cộ chở lương-thực đều bị cướp phá sạch.
Chương-Hiến tính người khiêm cung nhã-lượng, đãi kẻ dưới rất có ơn, nhân dân ai cũng thương mến,chẳng may giữa đường tử nạn, không đem được việc mình tâu với triều-đình, chẳng được hưởng ơn điển sinh phong tử tặng. Lúc ở nước ra đi, có bà quốc-mẫu-cô Lê-Thị và mấy người thân quyến cùng đi, đều bị quốc-dân bắt giết, đau đớn biết chừng nào. Chỉ có ông ngoại là thân-huynh của Thế-Tử được thoát chết. Lời bàn người đãi kẻ dưới rất có ân, nhân dân ai cũng thương mến, lại chết vì bị dân đánh chỉ tại tội phản quốc.
[3] Trích từ bản dịch của Viện Đại Học Sư  phạm Huế 1961, trang 10 ấn bản điện tử.
[4] Trích từ Chu Dịch với binh pháp, trang  24.
[5] Song là một loài dây leo trong rừng như cây mây, to bằng cán dao có khi dài vài chục thước. Thân cũng như mây toàn là gai nhưng lớn như gai bưởi.
[6] Chúng tôi sẽ giải thích ở chương kế tiếp.

Tuesday, December 23, 2014

Nhà khá đắt


Tôi tìm thấy một số nhà khá dắt tiền, định mua nghỉ hè chơi, nhưng thấy chưa vừa ý mấy. Chẳng hiểu các bạn nghĩ sao? Mua một cái đi.
























Monday, December 22, 2014

Ảnh lạ từ msn

Trong mùa tuyết ở New York 2014

Mưa đá ở Nga

Em bé tắm ở Ấn Độ

Các lực sĩ nghỉ ngơi- Ý

Chữa cháy ở Cali- Mỹ

Đánh Cá trên sông Li- Quảng Tây- TQ

Nước đóng băng trên hồ Michigan- Mỹ

Tay đua Brody Wilson- Mỹ đang bay trước núi Zugspitze- ngọn núi cao nhất Đức


Sunday, December 21, 2014

Những Ngày Không Mặt Trời- Bài 14


Cuối bậc trung học đệ nhất cấp- đệ tứ (lớp 9), tôi học chung cùng lớp với Thanh, Thiện vì hai anh em cô ta đã kém may mắn trong kỳ thi trung học đệ nhất cấp trong niên học trước.

Lề lối học vấn cùng thi cử ngày ấy rất khó khăn. Một năm, có một kỳ thi Trung Học cho toàn quốc và số thi đậu khoảng 20%. Các học sinh học hết lớp đệ tứ (lớp 9) phải tham dự kỳ thi này, tuy nhiên một học sinh thi rớt bằng Trung Học vẫn có thể học đệ tam (lớp 10) nếu họ đủ điểm trung bình. Khi đến lớp đệ nhị (lớp 11), các học sinh lại phải tham dự kỳ thi tú tài I. Kỳ thi Tú Tài I cũng được tổ chức cho toàn quốc, một năm có hai khóa: khóa một khoảng đầu tháng 6 và những người kém may nắm trong khóa một sẽ được thi khóa hai. Khóa hai thường được tổ chức vào khoảng giữa tháng 9.

Một kỳ thi tú tài gồm hai phần: thi viết và thi vấn đáp. Sau khi thi viết độ nửa tháng thì kết quả được công bố. Một học sinh sau khi đậu thi viết sẽ phải thi vấn đáp và họ cũng đậu kỳ thi này họ sẽ có bằng Tú Tài I và được học lớp đệ nhất. Một học sinh thi rớt môn viết sẽ thi lại từ đầu vào khóa hai, còn ai thi vấn đáp rớt thì chỉ sẽ thi lại vấn đáp vào khóa hai. Nêú khóa hai mà họ cũng rớt vấn đáp thì năm đó kể như bỏ và vào niên học kế tiếp họ lại bắt đầu từ số 0. Cả hai kỳ thi, số học sinh thi đậu chỉ khoảng 15 hay 16% mà thôi. Một học sinh thi tú tài I rớt liên tiếp thì đường học vấn của họ kể như là chấm dứt. Nữ sinh thì lo làm việc gì đó kiếm sống, còn nam sinh thì chỉ có một con đường duy nhất là: “Xếp bút nghiên theo việc đao cung” đi lính!

Bằng Tú Tài II lại càng khó khăn hơn nhiều, tuy nhiên cách thi cử cũng tương tự như kỳ thi Tú Tài I. Tỷ số thi đậu một năm khoảng 13%. Làm một phép toán ta thấy trong 1000 học sinh, sau hai kỳ thi Tú Tài thì chỉ còn 21 người đậu bằng Tú Tài II. Trong thời gian ấy, nhiều ngừơi chế diễu những kẻ thi rớt Tú Tài bằng cách gán cho người thi rớt một quân hàm: rớt một lần là Thiếu Úy Tú Tài I hay II; hai lần là Trung Úy Tú Tài… Có kẻ lên tới Đại Tá (ba năm thi) hay Tứơng (bốn năm trở lên) mà vẫn không đậu. Trong khi kỳ vọng gia đình rất cao cho kẻ đi thi, nên nhiều người thi rớt đã tự tử để khỏi bị mang nhục.

Năm ấy, mẹ tôi tốt nghiệp bằng Anh văn Lower Certificate của đại học Cambridge. Bà quay về Vũng Tàu mở lớp Anh văn tư thục tại nhà. Cẩm Dung và một số bạn bè cùng lớp theo học lớp đó. Vài người bạn cùng lớp tôi là Kiệm, và Hùng (cháu ông Nguyễn Đình Hòa) cũng có mặt trong số học sinh đó. Tôi học sinh ngữ bậc cao hơn, nên không phải là học sinh chính thức của lớp, tuy nhiên đến giờ chính tả, tôi thường ra tham dự để luyện thêm về ngữ vựng.

Một hôm, ở trong lớp ở trường công, giáo sư T đột nhiên hỏi chúng tôi:

- Các em học sinh cũ còn nhớ em An không?

Chúng tôi hơi ngạc nhiên, vì giáo sư T là người rất nghiêm trang, ít khi nói chuyện về một học sinh nào.

Các học sinh cũ như Thanh, Tị, Két, Đoạn đồng loạt hỏi:

- Thầy nói chị An là chị thật đẹp người mà trước kia đã học trường này phải không Thầy?

- Đúng đó!

- Các em tưởng chị ấy đã đậu trung học rồi mà?

- Không An bị trượt. Chiều hôm qua, An đến thăm Thầy và ngỏ ý muốn về học lại trường mình. Có lẽ An sẽ theo học lại lớp đệ tứ.

Tôi không biết cô An đó là ai mà thầy T nhắc nhở như vậy? Chắc cô này đẹp lắm, và thầy giáo cũng chỉ là người có đủ thất tình lục dục, nên thầy có cảm tình với một người đẹp thì cũng bình thường thôi. Theo quan niệm tôi, thầy giáo chỉ là người truyền đạt kiến thức cho kẻ chưa biết điều đó, chứ ông ta không phải thầy tu hay thần thánh gì. Vì vậy việc thầy trò yêu nhau là chuyện bình thường, miễn là đừng làm trái với luân thường đạo lý. Tôi tôn trọng các thầy, các cô là vì họ đã cố công truyền đạt kiến thức họ cho chúng tôi, để sau này chúng tôi dùng kiến thức ấy trong việc mưu sinh.
 
*** 

Tuần sau, trước khi có giờ chính tả Anh văn tại nhà, mẹ tôi hỏi:

- Hiệp, hôm nay con có ra viết bài chính tả không?

Tôi đáp:

- Thưa mợ không, hôm nay sau khi gánh nước, con phải lo làm nhiều bài tập lắm.


Thời gian ấy, khu tôi ở chưa có nước máy, nên cứ khoảng hai ngày tôi phải gánh nước từ một cái xe đậu trước cửa vào nhà, và đổ vào cái bể cạn cho nhà dùng. Kể từ năm tôi học đệ ngũ, Cẩm Dung phải lo chuyện rửa chén, nấu cơm còn tôi phải lo gánh nước, tưới rau, chứ không như trước việc gì hai anh em cũng chia đôi. Bố tôi sợ nếu bắt Cẩm Dung gánh nước sẽ khiến chân tay thô kệch, làm cho mất đi cái vẻ yểu điệu của một cô thiếu nữ.
 
Tôi lo đi gánh nước, rồi vào nhà làm bài toán, cũng vừa lúc đó lớp học bắt đầu. Tôi môn gì cũng thích, nhưng đặc biệt là toán. Vì vậy khi thầy Nguyễn Tuấn Văn cho bài tập về là tôi ngồi chứng minh, nhưng không phải là một cách giải mà là vài ba cách khác nhau. Thầy thường đem bài tập của tôi cho học sinh các lớp khác xem làm mẫu. Vì vậy mà tôi càng phải trau dồi môn này nhiều hơn. Bản tính tơi viết chữ rất cẩu thả, sách vở giữ không sạch sẽ mấy, nhưng với môn toán tôi viết rất rõ ràng ngăn nắp. Nếu con số viết không rõ ràng thì kết quả có thể bị sai lạc. Hồi còn học tiểu học ở Thanh Hóa, bác tôi mỗi lần khám sách vở, thường đánh tôi rất nhiều vì viết chữ xấu. Mỗi lần như vậy bác lại mắng: “Mày viết chữ như gà bới bếp, sau này lớn lên chỉ đi hốt cứt bò để sống, chứ học hành sao được?”

Một chặp sau, khi đang chăm chú giải toán, tôi nghe giọng của một thanh niên:

- Thưa cô con mới tới.

Tiếng mẹ tôi đáp lại:

- Chào Quân, hôm nay cậu đến trễ thế!

Quân là một thanh niên, cũng có thể gọi là khá tuấn tú, lớn hơn tôi vài tuổi. Tôi không biết anh ta làm gì để sống, nhưng chắc chắn không phải là một học sinh thuần túy.

Tiếng Quân đáp lại:

- Thưa cô, hôm nay con dắt lại cho cô một cô học sinh mới.

Tiếng trong trẻo của một cô gái Bắc vang lên:

- Dạ chào cô.

Mẹ hỏi:

- Tên cháu là gì?

Quân nhanh nhẩu đáp thế:

- Dạ, tên cô ấy là An.

Tôi tò mò ai mà có tiếng nói nghe trong quá: "trong như tiếng hạc bay qua" thế này? Tôi định ngó ra lớp học xem coi An như thế nào, nhưng thấy thật quá trắng trợn, thô bỉ nếu tôi làm như thế, nên đành ngồi lại trong phòng làm bài tiếp. Tôi phân vân tự nghĩ: "Chẳng biết cô An này với cô An mà thầy T nhắc trong lớp có liên quan gì đến nhau hay không?"

Sau hơn một giờ học văn phạm, ngữ vựng, tiếng mẹ tôi vang lên:

- Nào bây giờ đến phần viết chính tả. Các con cất tập xuống hộc bàn đi!

Tôi nghĩ đây là cơ hội để tôi nhìn cô gái tên An ấy, nên cầm giấy bút ra lớp học.

Mẹ hơi ngạc nhiên, vì trước khi học tôi đã cho bà biết tôi không ra viết chính tả hôm ấy.

Bà hỏi :

- Con cũng ra viết chính tả à?

- Dạ vâng.

Bà quay sang An:

- Để cô giới thiệu với cô học sinh mới. Đây là Hiệp, con trai của cô, còn đây là An.

Tôi cúi đầu chào An. Nàng cúi đầu, nhoẻn miệng cười đáp lại. Ôi chao một nụ cười! Nụ cười ấy làm tôi chân tay run lẩy bẩy. Người con gái trước mặt tôi có mái tóc đen huyền dài chấm thắt lưng, cặp lông mày dài như lá liễu, với đôi mắt đen lay láy như hạt huyền nổi bật trên một làn da hơi ngăm ngăm càng tăng thêm vẻ duyên dáng, yêu kiều của một thiếu nữ mới dậy thì. Tôi có cảm tưởng lớp học của mẹ tối hôm ấy sáng rực rỡ hơn mọi ngày với chiếc áo dài tím của nàng. Tuổi nàng cũng chạc tuổi tôi thôi.

Tôi nghĩ: “Từ nhỏ đến bây giờ mình mới thấy một cô gái đẹp như thế này.”

An ngồi chăm chỉ học, dường như nàng không quan tâm tới một ai cả.

Lớp học tan, tôi có cảm tưởng như mất đi một cái gì quí giá. Một điều quan trọng, tôi không biết An có phải là người yêu của Quân hay không?