Sunday, May 10, 2015

Xin Lỗi:

Xin Lỗi: Lâu nay tôỉ bì kẻ gian dùng thẻ mua các thứ trên online của Google Play nên tôi phải cancel thẻ. Vì vậy Google cũng đóng luôn picture storage của tôi mà mỗi tháng tôi phải trả tiền. Vì các bài đăng thường có kèm thêm hình, nên tôi phải ngưng đăng bài. Tôi đang reapply laị và Google đang phối kiểm, nên dăng bài không liên tục được. Xin các bạn đọc thứ lỗi. VHKT

Sunday, May 3, 2015

Những Ngày Không Mặt Trời- Bài 31

Về đến nhà, tôi dở quyển sách nhạc để vẽ tựa cho nàng. Bài nhạc đầu tiên tôi viết tựa là bài "YOU ARE MY DESTINY" (Có nghĩa: Anh là vận mệnh của em). Bản nhạc này do ca sĩ trẻ tài danh Paul Lanka trình bày. Trong bản nhạc, cứ mỗi lần có câu đó, tôi thấy nàng đều viết chữ in trong ngoặc kép. Đến bản thứ hai là "I LOVE YOU." (Em Yêu Anh) Bản thứ ba mà tôi viết tựa là bài "WHY" của ca sĩ Franky Avalon. Trong đó có câu sau: "I'll never let you go. Why? Because "I LOVE YOU." (Em sẽ không bao giờ để anh đi. Tại sao? Tại vì em yêu anh) Và những bài nhạc kế tiếp, cứ mỗi khi có câu "I love you" tôi thấy nàng đều viết chữ hoa trong vòng ngoặc kép. Tôi nghĩ thầm: "Chắc nàng có nhiều cảm tình với mình chăng?" Tự nhiên, tôi cũng cố sức nắn nót ngòi viết, cây cọ để diễn tả cái cảm tình của tôi đối với nàng qua các tựa bài nhạc hay các hình vẽ. Dù cố đè nén, tôi vẫn không thể ngăn được tình yêu của tôi đối với nàng. Mỗi lần trao đổi nhạc, tôi lại tặng nàng một trái trứng cá và cũng như trái đầu tiên, những trái đó được giữ trong hộp cho đến khi hư thối, rồi bỏ đi. Một hôm, tôi tới trao nàng quyển nhạc, tình cờ thấy nàng đang cầm bản "NỖI LÒNG" của nhạc sĩ Hoàng Trọng, hát nhỏ nhỏ một mình. Thấy tôi, nàng mắc cỡ ngưng hát. Tôi hỏi: - Kim cũng thích hát nhạc Việt à? Mỉm cười, nàng trả lời: - Có một số Kim thích lắm, như bản ni chẳng hạn. - Kim hát cho tôi nghe được không? Nàng đỏ mặt e lệ, thì thầm: - Kim hát dở lắm! Sợ Hiệp cười. - Tôi nào dám cười, vì tôi không biết hát. Kim lấy giọng cất tiếng. Giọng hát nàng cũng khá hay, khi nàng hát đến câu: "Em ơi giờ đây gần tôi, sao em ngại ngùng không nói lên lời. Có biết chăng tiếng lòng tôi..." Tôi bỗng thấy nàng liếc nhìn tôi, với ánh mắt thật trìu mến, làm tâm hồn tôi rung động. Khi hát xong, nàng hỏi tôi: - Hiệp có thích bản ni không? Tôi gật gù: - Bản nhạc thật thấm thía. - Để Kim tặng Hiệp bản ni hỉ. Nói xong nàng trao cho tôi bản nhạc đó. Từ đấy, mỗi khi nhàn rỗi và nhớ tới nàng, tôi xách cây đàn guitar ra gẩy và nghêu ngao hát. *** Thật ra nhà tôi nghèo nên không thể mua đàn guitar để chơi. Từ lúc còn học ở trung học Vũng Tầu, tôi thấy Thiện hay chơi đàn guitar, nên ao ứơc có một cái để học, nhưng biết thân phận mình nên tôi dẹp mộng đó đi. Tôi có người anh họ tên Võ Tiết, sau này đổi họ thành Lê Tâm Thăng. Anh làm việc cho đài phát thanh Sàigòn. Một lần lại thăm anh, tôi thấy anh có cây đàn guitar mới tinh treo trên tường. Tôi hỏi: - Anh Thăng. Anh cũng biết chơi guitar sao? Anh lắc đầu: - Anh biết mẹ gì! Đàn bà thì còn biết chút chút, chứ đàn thật thì mù tịt. - Sao anh lại có đàn? Chị Thăng đỡ lời: - Anh dự liên hoan ở sở và trúng số đó. Tôi thèm lắm nhưng không dám xin. Năm trước khi tôi thi tú tài I ban toán, thì anh thi tú tài I ban văn chương. Lúc tôi đậu thi viết, anh cũng đậu thi viết, nhưng sau đó bận rộn tôi không biết kết quả vấn đáp của anh ra sao. Sau khi tôi đậu vài hôm, tôi lại nhà anh thăm vợ chồng anh, thấy anh ngồi ú rũ. Tôi hỏi: - Anh Thăng. Kết quả ra sao? Anh lắc đầu chán nản, thì chị Thăng nói: - Anh ấy trượt rồi. Tôi sửng sốt: - Thật không? Anh gật đầu: - Thật, nhưng anh bị trượt môn vấn đáp, mà đau nhất anh trựơt vì toán chú Hiệp ạ. Chị Thăng nói: - Chú Hiệp, chú giỏi toán lắm. Chú lại kèm toán cho anh đi. Đậu anh chị thưởng cho. Kể từ ngày ấy, tối tối, tôi lại nhà anh kèm anh toán. Kỳ thi thứ hai tới, anh lại đi thi vấn đáp. Sau khi thi vài tuần, tôi lại đến nhà anh chị tìm xem kết quả như thế nào. Thấy tôi, cả hai anh chị cười tít mắt: - Anh đậu rồi chú Hiệp ạ! Tôi vui mừng: - Chúc mừng anh chị. Anh nói: - Phải thú thật rằng, cách giảng bài của em dễ hiểu hơn mấy ông thầy anh học ở trường. Chị Thăng hỏi: - Này ông thầy tí hon, ông muốn thưởng gì đây? Vàng bạc, kim cương thì không có, nhưng chút tiền còm thì có liền. Tôi nhìn quanh không thấy cái đàn đâu nữa. Tôi nói: - Tiền nong sài rồi cũng hết. Em muốn có một kỷ niệm, nhưng không thấy nữa. Anh đậu là em mừng rồi. Anh hỏi: - Chú muốn kỷ niệm gì? - Trước kia em thấy anh có cái đàn nên muốn xin anh. Chị Thăng cười ròn rã: - Anh chị đem cất trong buồng ấy. Ai đến cũng yêu cầu anh đàn, mà anh đàn con khỉ gì! Chỉ đàn tì bà hay tì đàn bà là được thôi! Để anh chị tặng chú. Kể từ ngày ấy, tôi có cây đàn. Mang về nhà, mua sách tự học Tây ban cầm, nhưng không có kiếu nên đàn cũng dở ẹc.

Saturday, May 2, 2015

Đại Việt Thắng Nguyên Mông- Bài 93

Trong cuối thập niên 1990, chính phủ Mỹ đã đến trao tặng huy chương về sự hợp tác cho dân thị trấn cùng làm một tấm bia ghi tên 28 dân làng và 32 quân nhân Mỹ đã hy sinh nơi đây. Đặc biệt bà cụ Martha được huy chương cao quý vì sự hy sinh can đảm của bà. Thời kháng chiến chống Pháp, đa số dân ở các vùng Việt Minh kiểm soát đều biểu hiệu tinh thần yêu nước nên cũng làm điều mà người ta gọi là chiến tranh nhân dân. Đến như ngày nay, khi một nước muốn có chiến tranh với nước khác, thì trước hết phải được dân ủng hộ. Năm 2003, lúc Liên Hiệp Quốc đang điều tra xem Saddam Hussein có loại vũ khí giết người hàng loạt không thì chính phủ Bush nói là có. Vì sự tuyên bố của Tổng Thống nên 70% dân Mỹ ủng hộ đánh Iraq; quốc hội liền thông qua, rồi quân Mỹ ào ào tấn công. Nhưng bây giờ sau vài năm, chẳng thấy gì dân chúng bất mãn, con em họ chết cũng bộn, nên 70% dân không tin Bush. (Dân Mỹ ngây thơ vô (số) tội thật!) Quan niệm về lấy nhân dân làm lính không phải mới xuất hiện, mà có từ thời Đông Chu Liệt Quốc. Tôn Tử nói: “Bậc minh quân hiền tướng, để hành động mà thắng người, thành công là ở dân chúng, ấy là bậc tiên tri. Bậc tiên tri không thể lấy từ quỷ thần, không thể dựa vào tượng trời mà làm việc, không thể suy nghiệm qua tính toán thiên văn, nhất định phải lấy từ con người nắm được tình hình kẻ địch.” Đó chính là dùng dân làm tình báo. Sau này các nhà binh gia nổi tiếng như Ngô Khởi, Điền Kị, Khổng Minh… đều dùng dân làm căn bản trong chiến thắng. Bài học trên cho thấy Đức, Mỹ đều là người nước ngoài, nhưng dân Pháp giúp Mỹ vì họ thấy được cái chính nghĩa của sự hiện diện những quân nhân này. Vì nhận thấy khi chinh phục được nhân tâm, dân chúng sẽ giúp quân đội đánh giặc nên ông Mao Trạch Đông đã đề xướng ra thuyết “Chiến Tranh Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân.” Tất cả mọi người già, trẻ, lớn, bé đều có thể trở thành lính. Một điểm quan trọng là các nước đều có việc naỳ, nhưng Trung Quốc đã đề ra sách lược hẳn hoi. Miền Nam Việt Nam trứoc kia cũng có “Quân Đội Nhân Dân” vậy; đó là Ấp Chiến Lược và Nhân Dân Tự Vệ. Ấp chiến lược thì thất bại hoàn toàn, còn Nhân Dân Tự Vệ tương đối thành công ở các thành phố, nhưng tại nông thôn cũng chẳng có gì. Tôi đồng ý “Chiến Tranh Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân.” Có lợi mà cũng có hại. Có lợi là giặc không biết ai là lính thật, ai là lính giả và có thể bị tấn công bất kỳ lúc nào. Có hại là hại cho người dân thường bị giặc tàn sát dã man. Theo thiển ý, đàn bà (dân thường) và con nít không nên trực tiếp tham chiến. Tuy nhiên chỉ giúp đỡ và yểm trợ tinh thần thì đâu phải là trực tiếp tham chiến. Còn nếu là nữ quân nhân tự nguyện tham gia quân đội nếu bị giết thì là chuyện thường và họ cũng hãnh diện hy sinh vì tổ quốc. Nữ quân nhân thì ngày nay khắp mọi nước đều có, kể cả VNCH ngày xưa. Hải quân Thụy Điển là nước tiên phong cho một nữ quân nhân làm chỉ huy trưởng một tầu ngầm tác chiến. Phi Luật Tân có vài kinh tốc đỉnh tác chiến loại DF343 điều khiển và chỉ huy toàn là nữ giới. Một điều đáng chú ý là “Chiến Tranh Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân” không dễ để thực hiện đối với quân xâm lược. Họ chẳng làm nổi, hay chỉ là một giai đoạn ngắn lúc đầu dân sẽ tin họ, nhưng về lâu về dài đa số đều thất bại. Riêng đối quân nước bị xâm lược thì các nhà lãnh đạo phải làm cho dân thấy chính nghĩa và quân đội phải tỏ ra bảo vệ dân, không cướp bóc dân mới thực hiện được. Một bằng cớ cụ thể là lúc Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần, nhân dân oán hận nên không thể thực hiện được chiến tranh nhân dân, rồi rốt cục nước ta bị nhà Minh xâm chiếm, đô hộ trên 20 năm. Riêng đối với một cuộc nội chiến thì người dân nhìn vào cả hai nhà lãnh đạo với cách trị dân như thế nào để quyết định ủng hộ ai.

Friday, May 1, 2015

Lưu Vũ Tích: Xuân từ


春 詞


新妝宜面下朱樓
深鎖春光一院愁
行到中庭數花朵
蜻蜓飛上搔頭
劉禹錫


Xuân từ
Tân trang[1] nghi diện hạ chu lâu ,
Thâm tỏa xuân quang nhất viện sầu .
Hành đáo[2] trung đình sổ[3] hoa đóa ,
Tinh đình[4] phi thượng ngọc tao
[5] đầu.
Lưu Vũ Tích


Lời Xuân     

Trang điểm cho xinh bước xuống lầu.

Nắng xuân buồn chiếu viện trong sâu.

Tần ngần đi đếm hoa vài đóa.

Đâu đến chuồn chuồn ghẹo chốc đầu.

                                    VHKT

 

Điểm trang xong bước xuống lầu.

Nắng xuân chiếu đến viện sâu lạnh lùng.

Đi đếm hoa nở sân cung.

Trên đầu, chuồn đến để cùng ghẹo chơi.

                                                VHKT



[1] Trang: trang điểm. Tân Trang: trang điểm cho đẹp
[2] Hành đáo: đi đến.
[3] Sổ: đếm, vài cái. Số: con số.
[4] Tinh đình hay còn gọi là thanh đình: con chuồn chuồn.
 

Sunday, April 26, 2015

Những Ngày Không Mặt Trời- Bài 30


Ngày 27 tháng 2, năm 1962, một biến cố chính trị khác đã xảy ra ở miền Nam. Đó là cuộc dội bom Dinh Độc Lập. Quả bom thứ nhất đã phá hủy một phần Dinh Độc Lập, quả thứ hai rơi ngay miệng hầm trú ẩn của gia đình ông Diệm, Nhu và cả Đức Giám Mục Ngô Đình Thục. Nhưng quả bom này không nổ. Gia đình ông Diệm may mắn đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Biến cố mày cũng làm tôi suy nghĩ nhiều về nền chính trị của Việt Nam Cộng Hòa. Có lẽ tuổi tôi còn quá nhỏ để nhìn thấy những bí ẩn của Tổng Thống Diệm chăng?

Một ngày vào đầu năm 1962, bố mẹ tôi làm một bữa tiệc để khoản đãi gia đình ông Th. Chiều hôm đó, tôi lăng xăng giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, bầy biện bàn ghế...và lâu lâu chạy ra nói chuyện với chị em của Kim.

Dọn dẹp xong, tôi ra cạnh nhà tìm Kim và Lư. Tôi thấy Kim đang cầm một cái sào nhỏ, chọc những trái trứng cá chín đỏ mọng trên cây. Tôi thầm nghĩ, cô gái này chẳng có câu nệ nghèo giầu gì đâu? Nếu cô ta tỏ ra là tiểu thư khuê các đời nào đi chọc mấy trái trứng cá mắc dịch này của con nhà nghèo làm gì?

Tôi hỏi:

- Kim thích mấy trái trứng cá này hả?

Nàng cười tươi như hoa, trả lời tôi với giọng Huế:

- Kim thích chứ! Có một quả to quá ở đầu cành tê tề, nhưng cao quá Kim lấy không được.

- Để tôi leo lên hái xuống cho Kim.

- Coi chừng nguy hiểm đó Hiệp.

- Không sao! Trò chơi con nít mà.

Nàng đâu biết rằng  thủa nhỏ tôi là một tên mục đồng, leo trèo, lăn lộn giữa rừng núi đầ trăn rắn và thú dữ. Rồi vào đây thì bị cao bồi, du đãng ức hiếp, đánh nhau hàng ngày.

Tôi leo lên và hái trái đó xuống cho nàng.

Trái này to hơn các trái khác nhiều.

Kim mừng lắm:

- Hiệp, Hiệp có mảnh giấy trắng không?

- Có chứ, mà Kim định làm gì vậy?

- Kim gói quả trứng cá ni về nhà.

Tôi nghĩ bụng: "Tại sao nàng lại gói trái này về nhà làm gì? Sao không ăn quách cho rồi?"

Tôi cười:

- Theo tôi!

Tôi đưa nàng vào nhà, rồi tới cái bàn học bừa bộn của tôi. Tôi đã từng chiếm giải quán quân về bừa bộn, nên cái bàn này nhìn rất khủng khiếp. Trong khi tôi tìm cho nàng một tờ giấy trắng, nàng xếp lại mấy quyển sách của tôi cho thật ngăn nắp.

Tôi cười chữa thẹn:

 - Kim à! Tôi chiếm giải vô địch về bừa bộn đó.

- Con trai, ai mà không bừa bộn.

- Nhưng tôi là số một. Kim không nói thế tôi buồn lắm đó.

Kim cười, cầm một quyển vở bìa dày xếp vào góc bàn, rồi hỏi:

- Quyển chi đó?

- Quyển sách chép các bài nhạc ngoại quốc ấy mà.

- Kim coi được không?

- Được chứ, cứ tự nhiên.

Vài năm trước, sau khi An yêu cầu tôi hát trong dịp tất niên, nhưng tôi không thuộc bài hát nào cả. Tôi rất hận mình, vì đã không thỏa mãn được lời yêu cầu của người đẹp, nên tôi đã lên đài phát thanh xin những lời của các bài nhạc ngoại quốc yêu cầu, rồi ghi vào một quyển sách. Đó cũng là một cách học Anh văn của tôi.

Lật vài trang, Kim hỏi:

- Ai viết tựa và vẽ cho Hiệp vậy?

- Tôi làm lấy đó Kim à.

- Nhìn đẹp lắm. Hiệp có thể vẽ tương tự cho Kim một quyển được không?

- Được chứ!

- Ngày mai, Kim sẽ mua một quyển sách, rồi ghi lời bài hát. Ngày mốt, Hiệp đến nhà Kim lấy hộ được không? Kim không có xe đạp mà.

- Không sao cả, ngày mốt tôi đến nhà Kim, sau khi tan học.

Hai hôm sau, tôi tới nhà Kim. Nàng vui như một con chim non, dẫn tôi vào phòng học của nàng, rồi lôi một quyển sách, và trao cho tôi. Bất thình lình, tôi thấy trái trứng cá đỏ ối mà tôi đã hái cho nàng hai ngày trước còn y nguyên, nằm trong một cái hộp bằng plastic, trên bàn, và ngay phía trước cái ghế ngồi của nàng. Chung quanh trái trứng cá được chèn bằng bông gòn trắng tinh. Giá trị của chiếc hộp đó quá cao so với trái trứng cá. Tôi nghĩ cô gái nhà giầu này chỉ cần bỏ ra một vài đồng thì có thể mua cả một rổ trái trứng cá, chứ cần gì phải làm thế này. Hay...hay là...?

Tôi hỏi:

- Kim, sao.. sao Kim không ăn trái trứng cá mà để làm gì vậy?

Mặt Kim bỗng đỏ bừng, thẹn thùng nói:

- Không...không...Kim chỉ...chỉ để ngó cho vui thôi.

Tôi không những thấy nàng chỉ đẹp, mà còn duyên dáng dễ yêu nữa. Tim tôi bất chợt đập thật mạnh không lẽ...Tôi vội dẹp ngay ý tưởng đó, tự nhủ thầm: "Mình có gì mà nàng để ý đến mình. Đừng mơ tưởng hão huyền!"

Chúng tôi nói chuyện thêm một lúc, rồi chia tay.

Saturday, April 25, 2015

Đại Việt Thắng Nguyên Mông- Bài 92


CHƯƠNG CUỐI- TRANH LUẬN (TT)

Những nhà quân sự nổi tiếng về du kích chiến gần đây là: Cossacks, Mao Trạch Đông, Võ Nguyên Giáp, Abd el-Krim, Tito, Micheal Collins, Tom Barry, Che Guevara, Hồ Chí Minh và Charles De Gaulle. Như vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nghiên chiến thuật du kích. Trong các danh nhân này chắc rằng mọi người đều nhận ra các tên: Tito thủ lãnh Nam Tư, Charles De Gaulle thủ lãnh Pháp, Micheal Collins thủ lãnh Irish (1890-1822), Tom Barry thủ lãnh Irish Republican Army (1897 – 1980), Che Guevara thủ lãnh ngừơi gốc Á Căn Đình (Argentine). Các vị này đều là các người to con chứ không nhỏ, nhất là De Gaulle. De Gaulle đã lãnh đạo dân Pháp trong cuộc du lích chiến chống Đức trước khi Đồng Minh đổ bộ lên Normandy ngày 6 tháng 6-1944.

Du kích chiến chỉ là đoản kỳ, trước khi bước sang trận địa chiến. Thật vậy, ông Mao trạch Đông đã viết Du Kích Chiến chia làm ba giai đoạn:

·               Dùng tuyên truyền lấy lòng dân. Phá hoại guồng máy chính quyền.

·               Gia tăng tấn công quân đội chính quyền và các cơ cấu trọng yếu.

·               Áp dụng chiến tranh quy ước, bao vây thành phố, lật đổ chính quyền.

Đừng nên nghĩ rằng đánh du kích là vì thiếu ăn làm người nhỏ đi. Nước ta đẹp đẽ nhưng nghèo nàn chiến tranh liên miên hết ngoại xâm lại nội thù, đời sống dân tình không được phong phú, nên người Việt Nam ta nhỏ con. Như lính Mỹ đi đánh du kích có thiếu ăn đâu?

Còn đánh nhau đường đường chính chính thì mình cũng đánh đó chứ? Nhưng các trận này giặc đều thua cả. Bạn không thấy trận Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên sao…Đó là các trận sau khi giai đoạn du kích chiến đã qua. Để nhắc lại cho bạn nhớ. Pháp muốn nhử bộ đội Việt Minh đương đầu với họ trong một trận chiến quy ước, hầu dùng vũ khí tiêu diệt, nên họ tạo ra trận Điện Biên Phủ đó bạn ạ. Sau trận đó, bộ đội Việt Minh đã hiên ngang bước vào Hà Nội, trong khi Pháp đã không hãnh diện khi phải rút lui khỏi Việt Nam.

 

a.       Chiến tranh du kích ảnh hưởng tới con cái không?

Vài người đưa ra ý kiến nếu áp dụng du kích nhiến thỉ sinh con nhỏ đi vì để phù hợp với môi trường.

Không phải vì đánh du kích mà sinh con đẻ cháu không to lớn khỏe mạnh. Thường thường, ngừơi thông minh chưa chắc là lớn con trong cùng chủng tộc. Cái thông minh cũng quan trọng lắm. Tôi nhắc lại vài chuyện để chúng ta cùng thấy sự thông minh quý đến chừng nào. Sử Trung Quốc đề cao Khương Tử Nha, người thông minh, đến 80 tuổi mới giúp nhà Châu lập nghiệp. Đời Tam Quốc có Khổng Minh tuy ông không to con và khỏe như Quan Vân Trừơng, Trương Phi, không võ nghệ tuyệt luân như Triệu Tử Long, nhưng tất cả các người này đều nghe lệnh ông đánh đâu thắng đó…

Trong trận chiến Thái Bình Dương năm 1941-1945, hàng triệu chiến sĩ to lớn của Mỹ lăn mình trong lửa đạn trong hơn 3 năm và hàng trăm ngàn người đã ngã xuống nhưng Nhật vẫn không đầu hàng. Thế mà với nhà vật lý học tài danh Robert Oppenheimer, chẳng to lớn gì lắm, đã điều kiển tổng cộng 130000 nhân viên trong đó có vài ngàn kỹ sư và khoa học gia làm việc cho chương trình có tên là Manhattan Project. Chương trình này đã sinh ra Little Boy và Fat Man. Đó là tên hai quả bom nguyên tử làm Nhật phải đầu hàng.

Tóm lại sự thông minh rất quan trọng.

 

c.       Có người lại nói đánh nhau không nên cho đàn bà ra trận.

Trong thực tế việc này xẩy ra rất nhiều, đó là sự phát sinh từ lòng mến chuộng binh sĩ và chính nghĩa nên dân tự động làm và không tại chỉ ở Việt Nam mà rất nhiều nơi trên thế giới. Cường độ dân tham gia vào cuộc chiến có khác nhau, tùy theo sách lược của họ. Đó chính là Công Tâm và Chính Nghĩa mà tôi đã bàn ở phần đầu của loạt bài viết này. Trong thế chiến thứ hai, dân chúng các nước bị Đức, Nhật xâm chiếm vẫn thường làm việc ấy. Nhân dân các nước Pháp, Nam Tư, Đông Âu Phi Luật Tân…vẫn thường che trở, giúp đỡ, cho lương thực các lính Đồng Minh khi họ bị lạc lối hay làm các công tác đặc biệt.

Sau đây là câu chuyện thật để chứng minh về nhân nhân chiến đấu của Âu Mỹ. Chuyện này đã được chiếu trên History Channel. Thật hứng thú để xem lại một đoạn phim nói tới trận đánh ở tỉnh Graingne liên quan đến ngày 6-6-1944, khi quân Mỹ đổ bộ lên Normandy.

Tôi viết lại theo trí nhớ để các bạn cùng xem.

Khoảng nửa đêm ngày 5-6 trước khi có cuộc đổ bộ lên bờ biển thì khoảng 10000 lính nhảy dù Mỹ được thả xuống hậu phương sau phòng tuyến tại Carentan. Lực lượng này có nhiệm vụ chặn quân tiếp viện cũng như triệt hạ các điểm phòng thủ bờ biển, giúp  cho lực lượng đổ bộ lên đây dễ dàng và bớt đổ máu.

Tuy nhiên các cỗ súng cao xạ của Đức đã làm cho cuộc nhảy dù có nhiều xáo trộn. Một đơn vị nhỏ của lực lượng này bị lạc mục tiêu và thả xuống một thị trấn nhỏ tên Graingne phía nam Carentan trên 20 km và cách bờ biển đổ bộ đến trên 40 km. Một số rơi xuống đầm lầy bị chết chìm; một số bị vướng trên cây bị quân Đức giết chết ngay tại chỗ. Số còn lại rải rác trên 1km2. Tất cả cũng lần mò gặp nhau, tập hợp thành một đơn vị gồm 182 quân nhân. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của một thiếu tá và một đại úy.

Vị Thiếu tá chỉ huy cùng ban tham mưu không biết chỗ đáp xuống là đâu, nên quyết định đến gõ cửa nhà dân. Gia đình này có cô con gái độ 10 tuổi tên Martha. Cả nhà cô Martha đã tận tình giúp cho các lính Mỹ xa lạ và cho họ biết nơi đáp xuống. Ông thiếu tá, thấy họ quá xa mục tiêu, nên quyết định dừng qnân và chặn đường quân tiếp viện của Đức.

Sáng hôm sau, cả tỉnh biết tin và toàn dân nơi đây kể cả ông linh mục, cùng thị trưởng của tỉnh đồng lòng giúp các lính Mỹ. Dân chúng đi thu lượm thực phẩm và lấy hết các cánh dù vương vất chung quanh để Đức không tìm ra dấu vết. Cô Martha cũng đi làm việc này và cô lấy được một cái dù trắng toát. Hàng ngày cô bé nhỏ xíu đi thu góp lương thực của làng, và cả các làng bên đêm về nuôi các người lính không cùng ngôn ngữ với cô.

Chỉ vài hôm sau, thì lính Đức cũng biết và một lực lượng 3000 quân được phái tới. Ông thiếu tá, lập tức ra lệnh phá chiếc cầu duy nhất để chặn tăng và lập tuyến phòng thủ. Tuy nhiên, vũ khí của đoàn lình này chỉ có súng cá nhân và súng cối, trong khi ấy lính Đức có đủ súng hạng nặng.

Cuộc chạm súng khốc liệt xẩy ra, một số lính Mỹ bị thương được đem về nhà thờ cứu chữa. Dân của thị trấn hết lòng lo cho họ.

Sau mươi hôm chiến đấu, và gây tổn thất nặng nề cho địch, nhưng vị thiếu tá chỉ huy tử trận. Ông đại úy lên thay. Ông nhận ra không thể diên trì lâu ngày tại đây, nên nửa đêm ra lệnh rút lui về Carentan, nơi quân Mỹ mới giải phóng. Một khó khăn và liên lạc thiếu thốn kiến một tổ gồm 7 quân nhân bị lạc. Tổ này may mắn gặp cô Martha lần nữa, cô đem cả tổ dấu vào một chiếc gác của một chuồng bò bỏ không.

Lính Đức vào thị trấn, việc đầu tiên của họ là là xử tử ông thị trưởng và ông linh mục. Sau đó họ đem giết hết các thương binh đang điều trị trong nhà thờ.

Bất chấp mọi nguy hiểm, hàng ngày, cô đi vắt sữa, luộc khoai tây rồi lén lút đến nuôi 7 quân nhân trên. Không một ai trong thị trấn biết việc này kể cả cha mẹ cô. Nhưng cái chuồng bò trống cũng không phải là nơi mật khu an toàn. Lính Đức bắt đầu lục soát khắp nơi và cuối cùng họ đến cái chuồng bò hôi hám ấy. Nhóm lính Mỹ nằm trên gác nhìn qua khe hở thấy 2 lính Đức đi vào lục soát phần chuồng bò và cả cái sân nhà hầm kế bên. Bây giờ là đến phiên lục cái gác. Họ tìm hoài không thấy thang, nên nghĩ không ai ở trên ấy nên lại thôi. Cái thang này cô Martha đã khôn ngoan dấu đi.

Lính Đức lôi dân thị trấn ra hỏi cung và giết chết tổng cộng 28 người dân, nhưng không ai chịu khai gì cả. Cuối cùng, người chỉ huy thấy máu đỗ đã quá đủ nên ngừng tay.

  Martha đi liên lạc với một nông dân. Ngừơi này đồng ý giúp 7 quân nhân trên bằng cách chở họ trên một chiếc xuồng nhỏ. Sau một nửa tháng lạc lối và chiến đấu vất vả, tất cả 7 người đã an toàn đoàn tụ với đạo quân chính.

Kết quả, với sự trợ giúp của dân Graingne, đội quân Mỹ  đã giết chết 500 địch quân và tổn thất 32 người thêm đám thường dân nói trên.

Riêng cô Martha khi trưởng thành, cô đã kết hôn và chiếc áo cưới của cô được làm cái dù mà cô đã nhặt được.

Friday, April 24, 2015

Xin lỗi:


Xin lỗi:

Hôm qua, tôi đăng baì đánh tiếng Việt nửa chừng thì computer bì frozen, không thể đăng tiếp.

Hôm nay, xin đăng trọn bài để các bạn tham khảo.

Mời các bạn xem lại bài đánh tiếng Việt dưới đây.

Chân thành xin lỗi bạn đọc.

VHKT

Thursday, April 23, 2015

Đánh tiếng Việt trên Window 7


Giới thiệu cách đánh tiếng Việt.

Lâu nay, tôi đánh tiếng Việt bằng Unicode và VNI. Tuy nhiên, bây giờ nhiều software mới coi đây là virus nên không chấp nhận. Vì lý do này tôi bị lúng túng. May quá cậu em gửi tôi một link dùng window 7 để đánh. Đây là lối đánh chính thức của Microsoft Word nên ta không còn trở ngại vì cho là virus. Tuy vậy, tôi hơi bị khó khăn lúc đầu.

Nếu bạn nào cũng bị khó khăn như tôi xin theo cách dưới đây.

Tôi xin giải thích lại và kèm theo thí dụ để tránh sự rắc rối cho các bạn. Các bạn làm theo cách chỉ dẫn dưới đây:

1-    Trên màn ảnh, bạn vào góc trái bên dưới để bấm vào ký hiệu của Window.


Sẽ thấy bảng trên.

Xin bấm vào “Control Panel”.
2-    Trên màn ảnh cho ta bảng:

 

Bấm vào “Clock, language, and Region.” 
1-    Màn ảnh lại cho bảng dưới đây:

 Bấm vào “Region and Language” ở hàng dưới cùng. 

4-    Ta thấy:
 
 
 
 
 
 
   
 
5-    Trong bảng mới, bấm vào khung “keyboards and Language” ở giữa. Bạn sẽ thấy bảng:
 
 

Bấm vào khung nhỏ xám “...Add...   .”,

Màn ảnh sẽ thấy:


Rồi sang khung lớn bên cạnh, kéo xuống dưới tìm chữ
+ Vietnamese.
 
Bấm vào dấu + phía trước. Hàng chữ này sẽ đổi thành:
 
 
 

Bạn bấm vào chữ Vietnamese.

Nay lại thấy khung

 

Lại bấm vào khung nhỏ xám “OK” bên dưới .

Ngay khi ấy, bạn nhìn vào màn ảnh góc phải dưới cùng sẽ thấy chữ EN cónghĩa là English.

Rời tất cả các khung. Bấm vào chữ EN, bạn sẽ thấy chữ VI bên dưới. Bấm hai lần liên tiếp vào chữ VI. Từ đây, chữ EN sẽ thay bằng chữ VI và bạn có thể đánh tiếng Việt.

Dưới đây là cách tiếng Việt:

Chữ ă đánh 1

Chữ â đánh 2

Chữ ê đánh 3

Chữ ô đánh 4

Dấu  huyền   5=

Dấu  hỏi        6=

Dấu ngã        7=

Dấu  sặc       8=

Dấu  nặng    9=

Chữ đ đánh   0

Chữ ư đánh  [

Chữ ơ đánh   ]

Ví dụ: Ta muốn đánh câu:

1-     Tôi ăn cơm tại vì đói bụng

Thì ta đánh như  sau:

T4i 1n c ]m ta9i vi5 0o8i bu9ng

2-    Nếu bạn đánh:

0[5ng t[]6ng y3u la5 kh4ng khô6

Thì bạn sẽ có câu:

          Đừng tưởng yêu là không khổ.

Một điểm đáng ghi nhận là cách đánh chữ Việt này khác hẳn VNI hay Unicode. Theo các cách cũ bạn đánh chữ rồi bỏ dấu hay cả chữ rồi thêm dấu sau cũng được; ví dụ chữ thường:

VNI và Unicode có thể đánh:

Thuong772 hay Thu7o72ng.

Đánh theo cách mới thì ta phải thêm dấu ngay khi đánh nguyên âm ấy, có nghĩa là:

Th[]5ng. Nếu ta thêm dấu (ở đây là dấu huyền hay 5) vào cuối chữ thì ta chẳng thấy gì hết.

Một ưu điểm của cách mới là sửa dấu. Ngày trước khi ta phạm lỗi thì phải xóa chữ rồi đánh chữ mới. Với kiểu mới ta chỉ cần đưa cursor đến sau nguyên âm và đổi dấu.

Thí dụ: ta muốn đánh chữ “chứa” mà đánh lầm thành “chừa”. Ta chỉ cần đưa cursor vào sau chữ ứ rồi nhấn 8 là xong. Lúc quên dấu cũng làm như vậy.

Chúc các bạn thành công.

VHKT

 



Sunday, April 19, 2015

Những Ngày Không Mặt Trời- Bài 29

Chương 06




 
 

Những ngày xuân cô đơn, buồn tẻ trôi qua. Tôi về Sàigòn để tiếp tục con đường học vấn. Tôi dùng bài vở làm vũ khí để chống lại bịnh thất tình. Từ ngày ấy, tôi không còn gặp lại An nữa, và tôi cũng nghe phong thanh rằng An lấy một y sĩ quân y. Lòng tôi thầm cầu nguyện cho nàng một cuộc đời hạnh phúc bên người chồng đã thật tâm yêu thương nàng.
Tháng giêng 1961, Hà Nội tuyên bố một mặt trận được thành lập ở miền Nam, lấy tên là "MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG NIỀM NAM." Tiếp theo sau đó, Cộng Sản gia tăng hoạt động, bằng cách phục kích, bắt cóc các viên chức cao cấp của chính quyền miền Nam.
Cộng Sản cũng tung ra một chiến dịch mới ở Mỏ cày bến tre. Đó là chiến dịch "Đồng Khởi và Cải Cách Ruộng Đất" nhằm áp dụng phương pháp đấu tố những gia đình địa chủ ở nông thôn miền Nam.


Khi học tư ở Sàigòn, tôi có một số bạn mới và trong số ấy có một thanh niên tên Cửu cỡ cùng tuổi là người thân nhất. Tôi hay lên nhà Trụ- người anh em bà con đã từng ở Nấp với tôi, chơi. Trụ cũng cỡ tuổi tôi nhưng đang học đệ nhất Chu Văn An. Còn Cửu ở nhà người bà con trên ở đường Trần Quý Cáp, cách nhau vài trăm thước. Thật là một tình cờ. Tôi hay sang Cửu chơi và cũng quen luôn mấy người em họ xa lắc của Cửu là Lan, Hạnh, Nhàn. Thật ra ba của Cửu lấy cô em út gia đình mẹ Lan, Hạnh, nên không có họ hàng thật sự. Nhưng Cửu lớn hơn mấy người này nên họ gọi Cửu là anh thôi. Nhàn là nam còn hai người kia là nữ. Lan năm đó mới độ 13 tuổi, Nhàn 12 còn cô bé Hạnh mới lên 9. Mấy người này cũng hay chia vui cùng Cửu và tôi. Lúc này, nhà bố mẹ ba người này là chủ của dãy nhà nhiều căn trên đường Trần Quý Cáp, nên cố một mức sống khá cao.

Cuối năm học đó, tôi đậu tú tài I. Tôi nhớ lại ngày trước, khi thăm An, nàng nói khi thi đậu nhớ khao nàng, và bây giờ sẽ không bao giờ gặp nàng nữa. Đậu rồi nhưng biết khao ai đây? Niên học tiếp theo, tôi vào học đệ nhất B 4 Chu Văn An, cùng với Trụ.

Cùng lúc ấy, bố mẹ mua một căn nhà nhỏ ở đường Trương Minh Giảng (Lê Văn Sĩ ngày nay), và cả nhà tôi đoàn tụ về đấy. Cẩm Dung đậu xong trung học và phải bỏ học để tìm việc làm. Một trong các việc làm của Cẩm Dung là làm ca sĩ cho đài phát thanh Sàigòn, với danh hiệu Thanh Mai.

Riêng tôi, tôi cũng nối tiếp nghề dạy học bằng cách đi kèm hai đứa bé, con một ông chủ tiệm radio ở Dakao để phụ với gia đình. Nhân đó nhà tôi có tiền, nên tôi được đi học Aikido, Judo, và Tei Kowndo với giáo sư Đặng Thông Trị, và tại đây tôi đã gặp anh Đặng Thông Phong cũng về học với thầy Trị. Anh Phong là em ruột thầy Trị, người nhỏ con, nhưng rất nhanh nhẹn.

Vào năm 1961, ông Th cựu Tỉnh trưởng một tỉnh ở miền Trung đem gia đình ông vào Sàigòn. Ông nhận một nhiệm vụ mới ở đây, đó là Giám Đốc một nha. Người con gái thứ ba xinh đẹp của ông: Kim, lúc ấy theo học lớp đệ nhị trường Gia Long (Minh Khai bây giờ,- Theo bố mẹ cho biết ông Th mất chức tỉnh trưởng vì ông là một người Phật giáo.)

Sau hơn mười lăm, mười sáu năm không gặp, ông hẹn bố tôi đem gia đình đến ăn cơm tối tại nhà ông. Bố tôi đem tất cả gia đình tới nhà ông từ buổi chiều. Nhà ông Th là một biệt thự thật đẹp nằm trên đường Trương Minh Ký, cách nhà tôi độ hai cây số. Sau một hồi giới thiệu gia đình hai bên, ông Th  lấy xe hơi chở Kim, Lư, Cẩm Dung, Thắng và tôi đi coi phim. Lư là em trai kế của Kim. Cậu này nhỏ hơn tôi lối ba bốn tuổi. Phim chúng tôi xem là phim "April Love" do tài tử Pat Boon thủ vai chính.

Khi vào rạp, vô tình tôi và Kim ngồi cạnh nhau. Kim thường ghé đầu sang tôi thì thào về chuyện phim đó. Dù rằng nàng đẹp thật, nhưng tôi không bao giờ dám nghĩ đến chuyện yêu thương nàng, vì những lý do sau: Trong tim tôi hình ảnh An chưa phai mờ. Tôi sợ lại thất tình, khi người yêu lên xe hoa. Một lý do khác là nhà nàng quá giầu, mà người giầu thường khinh khi kẻ nghèo.

Sự liên hệ giữa hai gia đình chúng tôi rất thân mật. Mỗi khi mẹ tôi làm một thứ ăn gì đặc biệt, bà thường sai tôi đem món ăn đó tới biếu ông bà Th. Trong những dịp này, tôi có dịp nói chuyện với Kim cũng như các chị em của nàng. Những người này đều có cảm tình với tôi. Sau nhiều tháng tiếp xúc, tôi nhận thấy cô gái nhà giầu của miền sông Hương núi Ngự này không khi người như tôi nghĩ, mà còn rất thùy mị dễ thương. Tôi thấy sợ hãi, vì có lẽ tôi đã có nhiều hảo cảm đối với cô gái ấy.