Monday, March 12, 2012

Nam Bắc du kí bài 76

Ngày sau, trời phủ nhiều mây, và gió bấc thổi lất phất. Chúng tôi đứa nào cũng lạnh run từ ruột đi ra, dù là chúng tôi đã mặc thêm vài cái áo và phủ ngoài cái áo tơi lá.
Khi mới gặp nhau ở đồi đầu làng, Lạc một cô gái mục đồng run lập cập nói:
- Chúng…ta có nên… chăn…ở…ở…rừng Tre nữa không?
Tú hỏi:
- Vậy…ý em…như thế…nào?
- Em muốn…nói chúng…chúng ta…khô…ng nên đến… đó.
Viện đen hỏi Lạc:
- Tại…tại…sao mày nghĩ…vậy?
- Vì…vì hôm qua…tụi nó…đã…đe mình…rồi.
Giao nói:
- Đừng t…in…tin lời chúng. Ch…úng sẽ phải…đuổi…theo bầy trâu, bò của chúng…khi…Thiến đuổi theo mấy…mấy con trâu…trâu đực.
Tú nói:
- Hơn nữa mình…chẳng muốn…chiếm cả đồng…cỏ, mình..chỉ…muốn chia với…chúng…như mình…đã làm với tụi…Đăng Khoa.
Tú ngừng một chút lấy hơi, rồi tiếp:
-Nếu chúng…muốn đánh nhau…tay đôi, thì mình…đã…đã có Hiệp.
Cả đám nhao nhao:
- Đúng đó!
Tôi góp ý:
- Mình muốn…chứng tỏ cho tụi…Diên Hào là…mình có quyền…chăn trâu…ở …đất…làng mình.
     Chúng tôi để đàn trâu, bò gặm cỏ từ từ về phía rừng Tre. Khi đến đồng cỏ đó thì mặt trời lờ mờ hiện ra sau làn mây mỏng ở xế lưng chừng trời, tuy nhiên trời bắt đầu có mưa phùn. Nhìn quanh, chúng tôi không thấy đàn trâu, bò của làng Diên Hào đâu cả. Có lẽ chúng sợ trâu lạc sau khi đánh nhau nên đã đi nơi khác, hoặc giả chúng đang chăn ở một đồi nào đó gần đấy, nhưng vì thời tiết xấu nên chúng tôi không thấy.
Tú nhờ mấy đứa trẻ khác ngó chừng trâu, bò của y và tôi, rồi rủ tôi sang đỉnh đồi bên cạnh. Chúng tôi đến đầu dốc của con đường mòn về Mả Dẻ mà vẫn chẳng thấy gì cả.
 Chỉ xuống chân dốc, Tú nói với giọng bình thường, có lẽ vì hoạt động nhiều nên bớt lạnh:
- Mình xuống dưới đó xem sao? Biết chừng đâu tụi nó còn bên sau hàng cây găng kia?
Tôi gật đầu rồi theo anh ấy xuống dốc. Đến lúc ấy tôi mới thấy lời nói của Tú hôm trước là đúng. Đường trơn vô cùng vì đường rất dốc, ướt mưa và toàn là đất sét.
 Chúng tôi lấy gậy chăn trâu chống và bấu mười đầu ngón chân xuống đất để đi cho khỏi té, tuy nhiên tôi cũng bị trượt té mấy lần, làm quần áo tôi lấm đầy đất bùn.
Tú nói:
- Mày phải giẫm lên những vết chân trâu, bò mà đi.
Tôi theo lời quả tình bớt ngã hơn nhiều. Sau hàng găng cũng chẳng có mống nào. Hai đứa tôi lại lóp ngóp leo lên dốc để về với đàn. Khi đến đỉnh đồi, chúng tôi chợt thấy ở phía tây một đàn mục súc khổng lồ lờ mờ trong mưa bụi, cách chúng tôi độ nửa cây số. Chúng đang từ từ tiến lại phía chúng tôi, như vậy là chúng đang trên đường về.
Tú và tôi vội vượt qua lạch nước trở về đồi kế bên, rồi lo gom góp đàn trâu, bò để chuẩn bị về chuồng. Khi tôi vừa sắp sửa cầm lấy dây mũi của Thiến thì nó chạy lại một lùm cây gần lạch nước để mài sừng. Chúng tôi không còn cách nào hơn là đứng nhìn.
Phút sau, cả một bụi cây to như đống rơm chỉ còn trơ lại vài góc cây to như cổ tay người lớn nát bấy. Trên đầu Thiến toàn là cành cây lá cây, nhìn chẳng khác một con quái vật.Khi hắn chưa xong, thì bên đồi kia một con trâu trắng khổng lồ lù lù đi xuống lạch nước chỗ Thiến đứng.
Trên đầy con đó cũng chẳng khác gì Thiến. Con trâu này to lớn lắm, so với Thiến nó chỉ kém chút đỉnh, nhưng hắn có lợi điểm hơn vì nó là trâu dái, không bị thiến. Tôi chưa bao giờ thấy con trâu nào có thái độ hung hãn như con này.Hai con trâu nghênh nhau với cặp mắt đỏ ngầu.
Viện chỉ vào con trâu trắng nói:
- Coi kìa! Sừng con trâu đó nhọn như mũi mác.
Tất cả chúng tôi bây giờ mới để ý đến sừng con trâu đó. Nó có cặp sừng không những cong, dài mà còn nhọn hoắt như hai mũi giáo khổng lồ.
Giao nói:
- Con trâu này là trâu chọi chuyên nghiệp, vì vậy sừng của nó được mài sắc như giáo.
Tôi lo âu nhìn Thiến. Trận đấu này không dễ dàng như các trận khác. Tụi trẻ làng Diên Hào chạy từ trên đồi xuống như ong vỡ tổ và dừng lại bên kia lạch.
Chớp mắt hai con vật xông vào nhau, choãi chân, cài sừng, đầu lắc qua lắc lại, cố tình chọc thủng cổ đối phương. Tiếng sừng trâu va chạm làm tôi lo sợ vô cùng. Có lúc Thiến tiến lên đẩy con trâu trắng lùi, có lúc nó bị đối phương đẩy lui lại.

Trận đấu đã kéo dài đến năm bẩy phút, mà chưa phân thắn bại.
Giao đột nhiên hốt hoảng la lớn:
- Thiến bị thương rồi!
Tôi chợt thấy cổ Thiến có vết máu. Lòng tôi quặn thắt, lo âu cho Thiến. Hắn đột nhiên hăng máu hơn, đẩy lùi đối phương vài bước đến cạnh một vũng trâu đầm. Con trâu kia cố sức quật khởi, vặc cặp sừng nhọn hoắt liên tiếp vào cổ Thiến.
Thiến lại bị chảy máu một chỗ khác, bị đau hắn phải lui lại. Vô phúc cho hắn, chân sau của nó bị thụt xuống vũng trâu đầm. Nó mất đà té lăn xuống vũng như một cái cối đá. Con trâu trắng thừa thế húc vào hông, bụng, mông của Thiến làm thiến bị thương nhiều chỗ. Hắn đau quá bỏ chạy mất tang. Con trâu trắng đuổi theo, nhưng không kịp.
Tôi cố sức ghi nhớ chỗ và hướng mà Thiến mất hút sau rừng tre.
Con trâu trắng lồng lên đuổi các trâu đực khác của làng làm chúng chạy tứ tung, trong tiếng reo hò tở mở của tụi trẻ làng kia.

Friday, March 9, 2012

Nam Bắc du kí bài 75

Quay lại chuyến du lịch:

Tôi chụp vài tấm hình rồi cậu này lại đưa tôi đi tiếp. Đến một nơi tôi thấy ruộng để trồng lúa và chỉ có ít nước. Các mảnh ruộng đã bị cầy lên chuẩn bị cho vụ mùa chiêm, Tôi lại hỏi:
      -          Đây là đâu?
-          Dạ Rừng Tre.
Kỉ niệm khác lại hiện lên trong lòng tôi:

      Khi Quỳnh hết chăn trâu, tôi ra nhập đàn với thôn. Làng tôi nhỏ nên số mục đồng ít đàn mục súc cũng ít. Tuy nhiên, Thiến cũng phải đánh bại con trâu đầu làng để làm lãnh tụ mới. Một trong những nơi tôi mới biết là cánh đồng cỏ Rừng Tre, nơi tranh giành giữa thôn tôi và làng Diên Hào. Lâu nay, làng tôi không dám chăn trâu nơi đây dù là nơi đây thuộc làng tôi. Sỏ dĩ có chuyện này là vì con trâu đực của làng này mạnh quá. Nó húc trâu thôn tôi chạy tán loạn. Hơn thế nữa, bọn mục đồng làng này đông nên chúng ăn hiếp làng tôi.
Lần đầu tiên, người mục đồng đầu đàn làng là Tú, dắt tôi đến đây tôi mới thấy cái hay của rừng.
Khi đuổi trâu, bò qua rừng Tre, tôi để ý đó thật không phải là tre, mà là luồng, một loài tre lớn hơn tre bình thường và không gai. Tôi không thể ngờ sau rừng tre um tùm đó là một cánh đồng cỏ bao la nằm trên vài quả đồi liên tiếp. Rải rác trên cánh đồng có những cụm dứa (thơm hay khóm), những bụi sim và mua.
Trước kia, Quỳnh và Tôi đã nhiều lần đuổi trâu, bò qua vùng này, nhưng chúng tôi nghĩ sau lũy tre xanh là tài sản tư nhân nào đó, vì vậy chúng tôi chẳng dám vào.
Chỉ vào bụi khóm Tú nói:
- Đó là dứa rừng. Ngoài cỏ tốt, đó là lý do thứ hai mà tụi Diên Hào cố gắng chiếm đồng cỏ này. Vào mùa hè, chúng tôi hay đi tìm dứa chín để ăn.
Nơi đó quả thật là một nơi lý tưởng để chăn đàn mục súc. Chỉ cần leo lên một gò mối cao là có thể quan sát được hết trâu bò. Giữa đồi chúng tôi đứng và quả đồi kế cận có một lạch nước nhỏ, và một vài vũng nước trâu đầm hôi thối. Chỉ có trâu đầm mình trong bùn, còn bò thì không. Vì trâu không có nhiều lông như bò, nên dưới ánh sáng mặt trời mùa hạ, nó thừơng bị rát da. Để bảo vệ thân chúng, trâu phải đầm mình trong bùn. Lớp bùn phủ bên trên lưng chính là một lớp áo giáp chống nắng.
Giao, em của Quỳnh đề nghị:
- Sang đồi kia coi đi anh Tú.
Giao bây giờ đi chăn bò cho nhà anh ta.
Tú nói:
- Ừ! Mình đi!
Để trâu, bò gặm cỏ nơi đó, Tú dắt Giao và tôi vượt qua lạch nước sang bên đỉnh đồi đối diện.
Giữa đỉnh đồi đó có một con đường mòn chạy theo hướng bắc nam.
Tú nói:
- Con đường này nối liền từ Mả Dẻ, ở phía nam, đến Diên Hào rồi chợ Tứ Trụ, ở phía bắc. Dân làng ta đôi khi cũng phải dùng nó để đi chợ, nếu con đường qua chòm đa bị lụt. Tuy nhiên, con đường này quá xa cho chúng ta. Tiện nhất là mình dùng nó để đi lên rừng Lim hay đập Bái Thượng. Một cái bất tiện khác là cái dốc kia.
Tú ngừng một lát chỉ tay về cái dốc nối liền từ đồi đó đến sông Nông Giang:
- Vào ngày mưa, nó trơn như xối mỡ.
Tôi tò mò:
- Đập Bái Thượng ở đâu?
Tú chỉ tay về phía tây, tây bắc:
- Phía đó cách đây độ mười mấy cây số.
- Còn đâu là rừng Lim?
- Cùng hướng đó. Chỗ mà có những chòm cây cao xa tít mù khơi đó. Thấy không? Theo ông cố Lý thì nơi đó là một vùng thuộc đất Lam Sơn.
Tôi nói:
- Vậy tôi biết rồi. Lam Sơn là nơi mà vua Bình Định Vương Lê Lợi đã khởi nghĩa chống nhà Minh bên Tầu vào thế kỷ 15.
Tú ngạc nhiên:
- Sao mày biết?
- Trong sử ký mà.
Tú lắng tai nghe một lúc rồi nói:
- Mình về đồi kia đi! Chúng nó tới.
Đến xế chiều, thì nhóm đầu tiên bầy trâu, bò của làng Diên Hào nhởn nha gặm cỏ đến đỉnh đồi đó.
Mấy thằng bé chăn trâu bên kia đồi la lên khi thấy tụi tôi:
- Ê bay ơi! Có trâu! Có trâu!
Có lẽ chúng báo động cho những tên trong đám còn ở dưới chân đồi, cùng khi ấy, Thiến bắt đầu mài sừng. Trên đỉnh đồi của đối phương, một con trâu đực, đầu đầy cành lá tiến về Thiến. Lúc chỉ còn độ năm bẩy thước con đó đứng lại, nhìn Thiến. Hai con trâu đánh hơi nhau, bằng cách hít hít mũi về hướng đối phương. Chỉ độ vài giây sau, con trâu đó chợt đâm đầu bỏ chạy và bầy trâu của làng Diên Hào chạy luôn, làm mấy tên mục đồng kia chạy theo chúng.
Vài tên quay sang chúng tôi, dơ quả đấm lên trời:
- Đừng bao giờ đến đây nữa! Các ông sẽ đánh tụi mày chết cha!

Thursday, March 8, 2012

Nam Bắc du kí bài 74

Có lẽ ông nhạc sĩ, trong một buổi chiều mát mẻ, ngắm một cậu mục đồng cầm ống sáo, ngồi vắt vẻo trên mình trâu nên đã sáng tác ra bài nhạc “Ai bảo chăn trâu là khổ”. Thật ra không phải riêng nhạc sĩ, mà một số họa sĩ cũng đã vẽ nên những bức tranh êm ả của cuộc đời mục đồng. Chẳng ai hiểu nổi các cơ cực lúc trâu lạc, bão tố hay lúc trời nóng như thiêu mà phải chạy theo trâu lồng.

Năm 1961, nghe vẳng vẳng bài hát trên, tôi đã làm bài thơ:

Cũng có hôm, người anh em bạn dì của tôi tên Giao và tôi chăn trâu lúc bão về. Và đây là câu chuyện chăn trâu trong bão:

       Một buổi hừng đông, trời đột nhiên mưa thật lớn. Trận mưa kéo dài cho đến sáng hôm sau và gió mỗi lúc một mạnh. Bố tôi cho mọi người biết chắc là có bão. Chúng tôi phụ ông lấy các tre, gỗ chống đỡ thêm cho căn nhà chính.
Đến gần trưa, gió mạnh giật dữ dội làm cho căn nhà tôi rung rinh, xiêu vẹo như muốn sập và kêu răng rắc. Cả nhà mỗi người ôm một cây chống, với hy vọng làm tăng thêm sức chịu đựng của căn nhà. Vì mưa gió lớn nên bữa cơn trưa hôm đó, chúng tôi, mỗi người chỉ được vài củ khoai luộc.
Sau bữa khoai cho người là bữa cỏ cho trâu, bò. Bố, mẹ đều có ý định cho trâu bò đói một hôm, nhưng tôi tình nguyện đi chăn chúng nó dù là bão bùng. Tôi sang nhà Giao, rủ y cùng đi chăn trâu với tôi. Y cảm thấy ái ngại vì mưa gió lớn quá.
Tôi nói:
- Anh Giao! Mình là cháu ngoan của Bác thì chẳng có lý gì mà sợ giông bão.
Giao nghe có lý, nên dắt hai con bò của y ra đồi với tôi.
Chăn được một lúc thì quần áo chúng tôi đều bị ướt vì chạy theo trâu bò, làm cả hai chúng tôi lạnh run lập cập. Chúng tôi bèn đâu hai cái áo tơi lá lại với nhau tạo thành một cái chòi tí hon, bên cạnh một gò mối để bớt gió và chỉ để hở một chút mà nhìn trâu, bò. Lâu lâu chúng tôi phải tách ra đuổi trâu, bò để tránh chúng ăn hại mùa màng.
Thêm độ một giờ nữa, tất cả năng lượng mấy củ khoai đều tiêu tan hết. Hai đứa tôi, quần áo ướt như chuột lột, miệng đánh bò cạp, nói chẳng ra hơi. Khổ một nỗi, lúc dầm mưa chỉ mót tiểu hoài mà không khát nước. Giản dị nhất khỏi phải đi đâu mà tiểu, vì cứ ngồi tại chỗ mà làm, tuy nhiên mỗi lần tiểu tôi cảm thấy đít mình ấm lắm.
Giao có vẻ hơi nản chí:
- Hi... hi...ệp ạ! Thôi...thôi mình... về đi.
Tôi khuyến khích:
- Anh...anh..kh... ông  sợ tự...ph... ê...phê bi...nh...bình là... là hèn...yếu sao?
Giao yên lặng một lúc rồi nói:
- Như...ng...nhưng... tớ...tớ...lạnh...qú... á.
Tôi đề nghị:
- Khi...nào đứ...a...nào đái, chu...ng ta cù...ng cùng... lấy tay...hứng...nước đái, xoa...xoa... vào người cho đỡ lạnh.
Giao gật đầu.
Từ lúc ấy, chúng tôi hứng nước đái của nhau để làm ấm thân. Vài giờ sau, chính tôi cũng hết chịu đựng nổi đói và lạnh, nên hai đứa đành đuổi trâu, bò về chuồng dù rằng chúng còn đói lắm. Khi trâu bò vào chuồng hết, tôi không còn một chút sinh lực nào cả, đứng vịn cửa chuồng trâu mà đi vào nhà không nổi.
Một chặp sau, tôi cố gắng lết vào nhà, nhưng khi đến giữa sân chân đạp phải chỗ quá trơn nên té xuống đất và đứng dậy không nổi.
May mắn thay, Cẩm Dung thấy, liền tri hô:
- Anh Hiệp ngã! Anh Hiệp ngã!
Ông cố Lư vội chạy ra, bế tôi vào nhà, rồi mọi người xúm xít quanh tôi: người lấy quần áo khô cho tôi thay, kẻ múc cho tôi một chén cháo nóng. Ôi sao mà sung sướng thế?

Wednesday, March 7, 2012

Thương Nhớ 14

Tôi nhớ Bãi Sau chỗ vượt biên.

Bao lần tính toán dạ không yên.

Mập mờ trời tối, người cùng xuống.

Ghe vượt trùng khơi dựa sóng triền.


Tôi nhớ Kuku, chẳng phố phường.

Ghé vào sau lúc vượt trùng dương

Đảo hoang, tỵ nạn nơi dung tạm.

Lễ Phật chùa hoang chẳng khói hương.


Tôi nhớ Ga Lăng, những nẻo đường.

Xuyên qua rừng núi đất Nam Dương.

Cách ngăn tỵ nạn dân hai trại.

Chờ lúc định cư đến bốn phương.


Sau lúc hãi hùng giữa biển khơi.

Giờ đây, yên thắm thấy yêu đời.

Cầu mong đất nước luôn sung túc.

Dân chúng muôn đời sống thảnh thơi.


                                                             VHKT

Nam Bắc du kí bài 73

Một buổi trưa, Quỳnh có một sáng kiến mới.

Anh bàn với tôi:

- Hiệp! Tao có một ý để làm mình khỏi phải đuổi bò nữa.

Tôi hỏi:

- Ý gì vậy anh Quỳnh?

- Dễ lắm.

Anh chỉ vào con nghé cái:

- Bây giờ mày cầm dây giữ con Thiến lại, còn tao đánh con nghé cái. Nó sẽ lồng lên đuổi đàn bò chạy về hướng rừng Si. Sau đó tao với mày chỉ việc cỡi trâu Thiến thủng thẳng mà tới.

Tôi không ngờ ông anh tôi thông minh quá như vậy, nên tôi gật đầu đồng ý liền.

Tôi cầm dây giữ trâu, còn anh Quỳnh bắt đầu gom đàn bò đến phía trước con nghé cái, hướng về rừng cây si. Việc gom bò xong anh đánh con nghé cái. Quả nhiên con nghé đuổi đàn bò chạy về phía rừng Si. Sự kiện đó làm tôi càng phục anh sát đất. Hai anh em bắt đầu leo lên lưng con Thiến để đi theo đàn bò.

Con Thiến đi được một quãng, thì bắt đầu bước đi thật lẹ làm chúng tôi ngửi thấy mùi nguy hiểm và chỉ một vài giây sau nó bắt đầu lồng theo bầy. Tôi ngồi phía trước anh Quỳnh, cầm dây cố ghì đầu trâu lại.

Miệng hai thằng tôi cùng hò hét:

- Thiến họ ! Thiến họ!

Hai anh em cùng cố sức dùng tay, chân quặp lấy mình trâu. Nhưng khổ thay con Thiến là một con trâu lớn xác, ít khi có con nào lớn như vậy, mà tôi thì nhỏ nên chân tôi quặp không được 1 phần 3 mình trâu. Tôi có cảm tưởng như đang đằng vân giá võ; cây cối thi nhau chạy vùn vụt ngược chiều; đất thì lúc thấp, lúc cao; bên tai gió thổi ù ù; thân chúng tôi tung lên hạ xuống; ruột gan chạy ngược lên ngực. Chỉ một phút sau, tôi bị hất văng ra khỏi mình trâu, rơi xuống đất như trời giáng, rồi chẳng biết gì nữa.

Chẳng biết bao lâu, tôi cảm thấy mặt ướt khi mở mắt tôi thấy con Thiến đang đứng bên cạnh hít hít vào mặt tôi. Không ngờ một con vật lại quí mến và lo cho sự an nguy của chủ nó như vậy. Nhiều khi con người cũng không bằng.

Cùng lúc ấy tôi nghe tiếng Quỳnh rên hừ hừ ở sau một bụi cây nào đó:

- Hi..ệ..p ơi!... Hi...ệp ơi!

Tôi đau quá trả lời không nổi.

Tôi cũng không ngờ rằng anh đã ngã sau tôi một chút.

Một chặp sau, tiếng anh ấy lại vang lên:

- Hi..ệ..p ơi!... Hi...ệp ơi! Mày...ở đâu?

Tôi gắng gượng trả lời:

- Em...đây.

Tôi thấy anh ta chui ra khỏi bụi cây, khập khiễng đi về phía tôi. Anh ngồi xuống cạnh tôi, rồi hỏi giọng bình phục phần nào:

- Mày...có sao không?

Tôi ngồi dậy sờ mó khắp nơi, may quá chẳng thấy chỗ nào có triệu chứng bị gãy xương.

Tôi trả lời:

- Chỉ thấy đau khắp nơi nhưng không sao.

Thật may phúc cho chúng tôi, chung quanh đó nhiều cây bị chặt làm củi, đưa gốc nhọn hoắt như chông, vậy mà khi ngã xuống chúng tôi không bị chúng đâm thủng ruột. Hai đứa tôi đi tìm cái chiếu nhưng không thấy đâu cả, nên đành dắt trâu đi về rừng Si. Đi được một quãng, chúng tôi đều cảm thấy mỏi mệt và đau quá, nên lại leo lên lưng trâu. May sao con Thiến lần này không lồng nữa, có lẽ nó biết chủ nó sẽ bị nguy hiểm.

Khi đến nơi, chúng tôi không thấy bò và con nghé cái trong rừng Si, mà thấy chúng đang gặm lúa ở cánh đồng bên kia đồi cách rừng Si khoảng hơn nửa cây số. Hai đứa hoảng hồn, quên cả đau, chạy xuống ruộng đuổi đàn bò lên phía rừng Si, tuy nhiên cả đàn bò cũng đã quất một nửa ruộng lúa rồi. Khổ cho ai có cái ruộng đó!

Khi đã an bài mọi việc, hai anh em leo lên cây si ăn sim, kể lại lúc ngã trâu. Sau những lúc cực khổ, hai đứa tôi cảm thấy sung sướng ngồi dưới tàn si hóng những ngọn gió hây hây từ mặt hồ sen đưa vào trong không khí nóng bức của mùa hè.

Anh Quỳnh đột nhiên hỏi:

- Hiệp! mày có thấy con nghé cái đâu không?

Tôi nhìn quanh một lúc rồi nói:

- Tôi chẳng thấy nó đâu cả. Để tôi leo lên cao coi nó ở đâu?

Nói xong, tôi nhanh nhẹn leo lên ngọn cây.

Tôi nói:

- Tôi thấy một bụi lau xa tít rung rinh. Có lẽ nó ở đó.

Hai đứa tôi chạy về phía bụi cây, lấy gậy đập vào các bụi rậm để đuổi con nghé ra. Quả tình, chỉ vài giây sau con nghé chạy ra. Đột nhiên con nghé lồng lên dữ dội, cùng lúc đó tôi nghe tiếng vo vo.

Quỳnh hét lên:

- Ong! Ong! Chạy!

 Tôi cắm đầu chạy theo anh ấy, và cảm thấy nóng như bị bỏng ở cổ và tay.

Đến ven hồ, Quỳnh la:

- Nhẩy xuống hồ, Hiệp!

Cả hai đứa cùng nhẩy xuống hồ, chẳng để ý đến gai sen cào. Chúng tôi lặn thật lâu để cho ong bay đi. Để chắc ăn, người không bị nổi lên rồi bị ong đốt, tôi dùng hai tay thọc sâu vào gốc sen. Một lúc sau, chúng tôi nhoi người khỏi mặt nước rồi leo lên bờ. Mỗi đứa đem theo vài con đỉa. Chúng tôi đã học được một bài học quí giá của sự chăn trâu.

Quỳnh thấy tay tôi cầm một cục đen đen, nâu nâu đầy bùn hỏi:

- Mày cầm cái gì vậy?

Tôi cũng quên mất lúc thọc tay vào gốc sen, lúc nhô lên thở móc luôn cái phần gốc của cây sen.

Tôi trả lời:

- Lúc nãy, em lôi nó lên từ gốc sen.

Quỳnh vui quá, cười:

- Ồ vậy đây là củ sen đó. Cái này ăn mát mà đỡ đói.

Anh đem củ sen xuống hồ rửa rồi chia cho tôi một nửa rồi cùng ăn. Tôi thấy vị ngọt  ngọt và mát.

Tuesday, March 6, 2012

Cảm tưởng bạn đọc:

Cách đây vài hôm, tôi nhận được email của Minh Khai, người quê Chợ Lách nay sinh sống ở Saigòn. Minh Khai có một số nhận xét về bài viết nên tôi đang lên để các bạn cùng xem. Nếu bạn nào có bài viết hay nhận xét thì gửi email về tôi.




2012/3/3 Khai Ng Minh

       Thưa Thầy, em tên Khai. Lâu quá không trao đổi với thầy qua email. Em vẫn luôn có bài viết "Nam Bắc du kí" của thầy. Thưa thật cả tuần em mới đọc một lần. Đọc bài thầy, em thấy phục và kính trọng thầy lắm. Trí nhớ thầy tuyệt vời, các chi tiết nhỏ từ thuở rất xa xưa vẫn được ghi lại chính xác. ( Hôm nay em gặp Lương Minh, Quý, Bạch Châu.. cũng xác nhận và phục thầy ở tài nhớ chính xác này, càng đọc càng thấy yêu mến quê hương, bạn bè và quá khứ...nhiều hơn )
       Từ " Nam Bắc du kí bài 60" trở đi, em thấy thầy mình có một thời tuổi thơ không yên ả, giản đơn như mình. Em không dám nghỉ ông Cụ và thầy đã có ý nghĩ và thực hiện được việc đưa đàn dê từ Tân Phúc về Hà Nội. Em nghĩ ngán ngẫm làm sao, khi thầy được Cụ trả lời từ đây về Nam Định  khoảng 200 Km. Con đường mà hiện tại bọn em ngồi trên xe hơi còn ngán ngẫm. Tuổi thơ của thầy quá gian truân nhưng đầy tự hào. Thêm nữa việc đi học của thầy cũng quá cực khổ, kiên trì, đầy ý chí, dũng cảm và chịu đựng. Từ việc đấu tranh với đám trẻ côn đồ bảo vệ hai cô bạn gái ( nhưng thầy cũng được đền bù một cách tuyệt vời là được nằm ngủ giữa hai bạn ấy, thật là một "kỳ tình" . Không phải ai cũng được như thầy đâu ! ) đến việc đi học về hàng đêm rợn tóc gáy, bất cứ động thái gì lạ sẽ như ma chực chờ phá vỡ lồng ngực-tim thầy trong hoảng loạn kinh hồn. Cuối cùng thầy đã vượt qua và nên người, vô cùng xứng đáng. Bọn em, từ học trò ruột đến học trò rễ.. mỗi khi nhắc đến thầy đều cảm mến, ngưỡng mộ.. Thầy đã viết như một câu kết luận : " ...Dù đã quá ư cực nhọc, nhưng tôi vẫn hảnh diện đã làm những việc mà những người cùng trang lứa không làm nỗi, chịu đựng những cay đắng mà các bạn cùng tuổi không bị ".
       Thưa thầy. Không phải bạn nào cũng có thể lên mạng để đọc bài của thầy. Nhưng em muốn xin phép thầy được chép ra và in lại thành một vài tập nhỏ, photo thành nhiều bản, tặng cho nhiều bạn học sinh Chợ Lách, không có điều kiện sử dụng vi tính. Em thấy mình diễm phúc trong số ít ỏi bạn bè được nhận trực tiếp bài viết của thầy, muốn chia xẻ cùng họ và muốn họ cũng như mình. Chắc thầy đồng ý. Em sẽ giữ 99,9% nguyên bản của thầy, chỉ chỉnh sửa một vài lỗi đánh máy để hoàn chỉnh và ý nghĩa hơn. Em xin phép thầy trước điều này.
       Hôm nay em viết gửi thầy quá dài. Xin chào thầy.

       Kính thầy. Minh Khai.



Trả lời:

Cám ơn Minh Khai đã phản anh và phê bình bài viết. Bài viết của em làm tôi súc động vì có người thông cảm. Cái trí nhớ của tôi được trời ban, nên nhớ rất lâu cùng rõ ràng. Tôi sinh ra ở Hà Tĩnh nhưng chỉ sống đây vài năm thì theo cha mẹ vào Huế. Tính ra khi rời Hà Tĩnh mới khoảng 2 hay 3 tuổi. Cách đây vài năm, vợ chồng tôi lên thăm bố mẹ. Nhân dịp cả đại gia đình tụ họp đông đủ, mọi người đem nhắc chuyện xưa. Tôi đem chuyện căn nhà và phố nhà tôi thủa xưa ở Hà Tĩnh ra nói và tả lại căn nhà. Bố mẹ tôi phải ngồi cãi nhau ỏm tí tỏi rồi kết luận tôi nói đúng.

Chuyện Minh Khai nói là vì bảo vệ hai cô bé, sau này tôi có diễm phúc nằm ngủ giữa hai cô ấy thì chưa chắc đúng. Vì lúc ấy, tôi mới 9 tuổi chẳng biết con khỉ gì. Uổng hết sức!!!

Nhưng có cái biết hết mà chẳng được gì còn tức hơn.

Năm 1977-1980, tôi được cụ Hiền (thân sinh bà chủ nhà may Thiết Lập) mời làm họa sĩ cho hợp tác xã thêu Đoàn Kết Vũng Tầu. Trong hợp tác xã có vài trăm bông hoa xinh như mộng. Cụ Hiền thì quá già, nên một mình tôi múa cọ giữa rừng hoa. Các cô hay nhờ tôi vẽ mẫu cho các cô. Thấy chưa! Cơ hội ngàn vàng, nhưng chẳng làm được gì vì bà vợ trẻ cầm roi canh chừng.

Ta đây gươm lạc giữa rừng hoa.

Một chốn giang sơn giữa các bà.

Chỉ tiếc gươm cùn treo gác bếp.

Lại thương kiếm cụt bỏ sau nhà.



Tôi chắc Minh Khai biết cách copy từ một website. Tuy nhiên, em viết được chép ra và in lại thành một vài tập nhỏ thì tôi hơi sợ em mất quá nhiều thì giờ. Vì vậy tôi nhắc lại cho bạn đọc, những ai chưa biết cách làm dễ dàng nhất:

1-      Mở một trang Microsoft Word.

2-      Highline phần muốn copy bằng cách nhấn nút bên trái của mouse và kéo xuống (đừng bỏ ngón tay ra), rồi nhấn Ctrl+C,.

3-      Quay lại trang Microsoft Word, click vào trang, rồi nhấn Ctrl+V.

Như vậy các bạn đọc có nguyên một bài khỏi cần ghi chép hay viết lại.

Nam Bắc du kí bài 73

Đây là câu truyện rừng Cây Si:

Khi mới lên Tân Phúc, việc đầu của tôi là đi chăn dê trên đồi (Nguy hiểm lắm vì gần dê nên máu dễ bị lây, may tôi cứng cựa nên không lây thôi). Đồi ở đây thoai thoải rộng từ 1 cây số vuông đến vài cây số vuông, phủ đầy sim cùng ràng ràng[1] và lau lách. Lau lách có lá sắc như dao cạo. Một vài nơi có các cánh rừng rậm rạp, đầy trăn, rắn và có một vài loài thú dữ chen lẫn với các đồi này. Dê chỉ cần chăn một thời gian đầu vài ba tháng để chúng biết đâu là nhà, đâu là chỗ chúng ăn. Sau đó, chúng tôi chỉ đuổi cả đàn lên đồi và có thể được tự do cho ăn, và tự động về nhà khi chiều xuống. Chúng tôi chỉ cần ra canh mấy ruộng khoai lang, gần nhà không cho chúng xuống ăn trên đường về nhà. Lúc ấy, chúng trở về nhà và thường hay tấp xuống ruộng khoai ăn tráng miệng.
Chăn dê được một thời gian thì bố đem về một con trâu tên Thiến vì nó bị thiến, một con nghé cái và hơn một chục con bò. Trong nhà chỉ tôi là trai, nên đương nhiên công việc chăn nuôi đàn này được giao cho tôi. Con Thiến là một con trâu lớn vô cùng; những con trâu lớn nhất của mấy thôn Tân Phúc, Mả Dẻ, Đăng Lâu, Đăng Khoa, Tân Lâm chỉ bằng 7, 8 phần mười của nó. Vì vậy sau mấy đợt đụng độ nó nghiễm nhiên là trâu đầu đàn. Trâu bò đực cũng chẳng khác người đàn ông hay cạnh tranh nhau để làm thủ lãnh. Khi con trâu lạ mới nhập đàn hay hai đàn trâu mới gặp nhau lần đầu thì con mạnh nhất làng sẽ đo tài với con mạnh nhất mới tới, để xem con nào là chúa tể. Nếu con mới đến yếu thì nó sẽ phục tùng dễ dàng và không có chuyện trâu trọi nhau.
Trong khi tôi chăn trâu việc canh ruộng lang được dao cho Cẩm Dung.
Lúc đầu, người anh họ tôi tên Quỳnh đi chăn với tôi một thời gian trước khi tôi đảm trách một mình. Một trong các nơi mà chúng tôi hay chăn là rừng Cây Si. Quỳnh vốn sống trong gia đình khá giả lúc thiếu thời, di chăn trâu thấy mình nó den thùi thì sợ cỡi lên mầu đen của nó dính vào da làm an hem thành Mỹ đen, nên anh lấy các chiếu nhỏ lót lên rồi an hem mới ngồi lên trên. Đúng là công tử cỡi trâu.
Những ngày đầu tiên tôi thích thú lắm, vì đó là giấc mơ của tôi. Nếu mọi chuyện êm đềm diễn tiến thì chăn trâu quả là thanh bình vui thú đúng như bài hát: Chăn trâu. Còn gì vui thú hơn khi ngồi vắt vẻo trên mình trâu, trong những ngày xuân mát mẻ, hoa sim nở tím ngắt khắp đồi này sang đồi kia. Còn gì thú vị hơn khi chạy nhẩy trên các quả đồi thoai thoải, trong các buổi chiều tà của mùa hè để hái các trái sim chín tím mọng, ăn ngọt và thơm.
Tuy nhiên, chăn trâu không phải lúc nào cũng êm đềm như tiểu thuyết hay bài ca vì ngày không lúc nào cũng đẹp, thời tiết không luôn luôn mát mẻ ấm áp. Nếu như chỉ chăn một hai con như trẻ trong làng thì có lẽ đã không khổ lắm, nhưng chăn nguyên một bày 20 con như chúng tôi thì lại là vấn đề khác. Những khi trâu bò ăn lúa, chạy bậy chúng tôi phải đuổi chúng trở lại đàn. Một sự đau khổ nhất cho chúng tôi là chăn trâu mà không có giầy dép gì cả. Khi phải đuổi theo trâu qua các bãi ràng ràng cháy, gốc chúng đâm vào chân như chông làm máu chảy dầm dề.
Lúc bình thường, chúng tôi cưỡi trâu đuổi con nghé cái và đàn bò tổng cộng độ gần 20 con vào rừng cách nhà độ hơn 2 cây số về hướng đông nam. Rừng này có tên là Si vì giữa rừng có một cây si mọc ở bờ một cái hồ sen lớn. Vì vậy chúng tôi đặt tên rùng này là rừng Si. Cái hồ này khá rộng, thông với cái đễn phía đông của làng. Nó chính là đường phân chia thiên nhiên của thôn tôi và thôn Đăng Lâu, Đăng Khoa vì thế bên kia hồ là những đồi cỏ của thôn ấy.
Trong rừng hầu hết là lau lách, lá sắc như dao cạo, nhưng trâu bò thích ăn lắm. Cũng vì lá sắc, lại ít cỏ nên dân làng không mấy thích chăn trâu nơi đó. Mặt, mũi, chân, tay tụi tôi thường bị lá lau cắt chảy máu khắp nơi. Chen lẫn với cỏ lau là các cây hoang um tùm và dây kim cương, một loài dây leo có gai rất lớn.
Khi trâu, bò đến nơi chúng tôi để chúng ăn cỏ rồi hai anh em đi hái sim chín đầy mấy cái túi. Sau đó, hai anh em leo lên cành cây si de ra mặt hồ, vừa ăn sim, nói chuyện vừa nhìn trâu, bò. Trong hồ có rất nhiều sen, nên chúng tôi có thể thưởng thức mùi thơm của hoa sen khi trong coi trâu bò. Kể ra thì chăn trâu kiểu đó cũng khá thơ mộng, nếu không có các tai biến khác.



[1][1] Cây thuộc loài ráng, thân nhỏ nhu cây nhang, dân đây thường làm rế từ thân cây này.