Wednesday, March 20, 2013

Thanh trủng


Đỗ Phủ nổi tiếng về các bài thơ mang tính lịch sử. Ông đem đề tài chiến tranh với tình cảm làm súc động nhiều còn tìm.

Bài thơ lịch sử dưới đáy nổi lên sự tích chiều đời Hán bị mang cống Hung Nô (Hồ).

Nàng có họ Vương (), tên là Tường (), hay là Vưong Chiêu Quân (王昭君). Lúc ở cung đình nàng chỉ là một cung nữ tầm thường. Theo chính sử nàng tự nguyện theo chúa Hung Nô sang vùng sa mạc để giải hòa Hán và Hung. Khi vào cung vua Hán lúc ấy là Hán Nguyên Đế đã sững sờ trước vẻ đẹp của nàng và muốn đổi ý. Nàng là một trong tứ đại giai nhân của TQ. Nàng làm hoàng hậu của xứ Thiền Vu. Nàng đã hạ sinh 2 hoàng tử cùng một công chúa. Tiếp theo vua băng hà và theo tục lệ Thiền Vu nàng phải lấy vì vua tiếp theo. Trong cuộc hôn nhân mới nàng sinh 2 công chúa.

Theo các truyền thuyết thi cuộc hôn nhân của Chiêu Quân đầy nước mắt. Lúc ở cung đình, Hán Nguyên Đế truyền cho họa sĩ Mao Diên Thọ vẽ chân dung các cung nữ để tuyển ngưởi vào hầu cận. Chiêu Quân cự tuyệt hối lộ của Mao Diên Thọ nên bị vẽ xấu đi, nên không được vào gặp Hoàng Đế.

Lúc quân Hồ uy hiếp Trung Nguyên, vua tuỷên cung nhân cống Hồ thì mới biết vẻ đẹp của nàng, nhưng quá muộn.

Có thuyết cho rằng Chiêu Quân đã tự tử ở biên giới Nhạn Môn Quan. Mồ nàng ở đây quanh năm suốt tháng đều xanh tươi dù là đông về giá lạnh. Trong khi ấy cỏ chung quanh đều tàn lụy. Có thuyết lại nói nàng yêu cầu vua Hồ giết chết Mao Diên thọ rồi tự tử ở một giòng sông trôi về TQ.

 

 

 

 

          青 塚                     Thanh trủng[1]

青塚前頭隴水流,   

Thanh trủng tiền đầu Lũng Thuỷ lưu,
燕支山上暮雲秋。   

Yên Chi sơn thượng mộ vân thu.
蛾眉一墜窮泉路,   

Nga mi nhất truỵ cùng tuyền lộ,
夜夜孤魂月下愁。   

Dạ dạ cô hồn nguyệt hạ sầu.

                            Đỗ Phủ

Nghĩa:

Mồ xanh, đầu sông Lũng Thủy nứơc đang chảy.

Trên núi Yên Chi mây thu phủ kín.

Mày thanh đã mất về dòng suối (vàng).

Đêm đêm cô hồn còn xuống với trang buồn.
 

Mồ xanh:

Lũng Thủy lững lờ cạnh mộ xanh.
Yên Chi, đỉnh núi mây vây quanh.
Mày ngài đã khuất theo dòng suối.
Đêm đến, cô hồn oán nguyệt thanh.
                                                VHKT
 

Một nắm mộ xanh bên Lũng Thủy.
Vài tầng mây xám cạnh Yên sơn.
Mày ngài đã khuất sau đường suối.
Đêm đến trăng soi hồn độc đơn.
                              VHKT
 


[1] Thanh chủng: mồ xanh, nơi chôn Chiêu Quân. Theo truyền thuyết, chỉ có mồ này cỏ xanh, còn chung quanh cỏ úa tàn.

Tuesday, March 19, 2013

Giang Nam phùng Lý Quy Niên


江南逢李龜年       

Giang Nam phùng Lý Quy Niên

岐王宅裡尋常見,   

[1] vương trạch[2][3] tầm[4] thường kiến ,
崔九堂前幾度聞。   

Thôi cửu[5] đường tiền ki độ văn[6] .
正是江南好風景,   

Chánh thị giang nam hảo phong cảnh ,
落花時節又逢君。   

Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân .
杜甫                Đỗ phủ


phỏng dịch:[7]
Giang Nam gặp Lý Quy Niên

Tôi gặp anh bên nhà họ Kỳ,
Rồi nghe họ Cửu kể về anh.
đến lúc Giang Nam mùa đẹp ấy,
hoa bay trong nắng lại tương phùng

 

 

Giang Nam gặp Lý Quy Niên

Nhà Kỳ mình đã gặp nhau.

Rồi nghe Thôi Cửu trước sau hết lời.

Giang Nam cảnh đẹp trên đời.

Giữa mùa hoa rụng tôi thời gặp anh.

                                    VHKT

                                                                                                               

Đã từng gặp gỡ ở Kỳ Vương.

Sang chỗ họ Thôi nghe rất thường.

Về tới Giang Nam muôn cảnh đẹp,

Hoa tàn, mình gặp cảnh sâù thương.

                                    VHKT

 



[1] Kỳ: 1. kỳ. 2. đường rẽ
[2] Trạch: nhà ở
[3] : 1. ở trong. 2. lần lót áo
[4] Tầm: tìm kiếm.
[5] Thôi Cừu: tên người
[6] Văn: nghe
[7][7][7]

Monday, March 18, 2013

CHÍ KHÁCH .


  客至       


    CHÍ KHÁCH .


舍南舍北皆春水                       

[1] nam xá bắc giai xuân thủy ,
但見群鷗日日來                       

Ðãn[2] kiến quần âu nhật nhật lai
花徑不曾緣客掃                       

Hoa kính[3] bất tằng duyên khách tảo
蓬門今始為君開                       

Bồng[4] môn kim thủy vị quân khai                       
盤飧市遠無兼味                       

Bàn[5] tôn thị viễn vô kiêm vị ,
樽酒家貧只舊醅                       

Tôn[6] tửu gia bần chỉ cựu phôi
肯與鄰翁相對飲                       

Khẳng[7] dữ lân ông tương đối ẩm ,
隔籬呼取盡餘杯           

Cách[8] li hô thủ tận dư bôi .
杜甫         Đỗ Phủ

 

Phỏng dịch:

Nhà nhà biển nước trời xuân.
Nhìn đàn chim trắng quây quần dặm khơi.
Lối vào ngập xác hoa rơi.
Lều tranh kín cửa hỏi người nay đâu ?
Chợ xa khó buổi cơm chiều.
Nhà nghèo chén rượu là siêu một đời.

Xóm giềng mời ghé qua chơi.

Chén anh chén chú trao lời cả đêm

 

KHÁCH TỚI.

Nhà nam, nhà bắc nước  muôn nơi.              

Đã thấy đàn âu lượn khắp trời.                                 

Hoa chửa quét đi, chào khách tới.                 

Cổng  tranh phải mở đón người chơi.                       

Mâm cơm thanh đạm, nhà xa chợ.                

Chén rượu bần hàn, quán viễn khơi.             

Cùng với bạn già hàng xóm nhậu.                 

Cụng li chan chát sướng thì thôi.                   

                                    VHKT

Quanh nhà nước phủ khắp nơi.

Ngày ngày, đã thấy trên trời đàn âu.

Hoa quét đón khách từ  đâu.

Cửa bồng nay mở để hầu bạn thăm.

Cơm xoàng vì chợ xa xăm.

Nhà nghèo, bình hở đã làm rượu ôi.

May thời hàng xóm sang chơi.

Cùng nhau chạm chén thấy đời vui ghê.

VHKT

 



[1] : quán trọ, nhà nghỉ. Xả: 1. vứt bỏ. 2. bỏ đi, rời bỏ. 3. bố thí
[2] 不但 Bất đãn: không những, không chỉ có
[3] Kính: 1. đường tắt, lối tắt 2. thẳng
[4] Bồng: tên loài cỏ.
[5] Bàn: Cái mâm, cái chậu.
[6] Tôn: cái chén.
[7] Khẳng: đồng ý.
[8] Cách: ngăn ra.

Friday, March 15, 2013

Khúc Giang nhị thủ


Bài thơ này có câu thơ mà ngày nay người ta hay nhắc đến lúc đề cập tới tuổi già


曲江二首-                    

Khúc Giang nhị thủ-


 朝回日日典春衣-                 

Triều hồi[1] nhật nhật điển[2] xuân y

每日江頭盡醉歸               

Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy 

酒債尋常行處有-                  

Tửu trái[3] tầm thường hành xứ hữu

人生七十古來稀               

Nhân sinh thất thập cổ lai hi 

穿花蛺蝶深深見-                  

Xuyên hoa giáp điệp[4] thâm thâm hiện

點水蜻蜓款款飛               

Điểm thuỷ[5] thanh đình[6] khoản khoản[7] phi

傳語風光共流轉-                  

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển

暫時相賞莫相違               

Tạm thời tương hưởng mạc[8] tương vi[9]

杜甫-                Đỗ Phủ

 

 


Khúc Giang 2

Ngày ngày vẫn cầm xiêm chầu mãn.             

Thường say sưa chiều vãn quên về.               

Nợ rượu thường gặp khắp quê                      

Đời người bẩy chục khó bề tìm ra.                

Bươm bướm lượn sau hoa ẩn hiện.                             

Chuồn chuồn thì đang điểm nước bay.          

Chúa Xuân thấm thoát qua ngày.                 

Rượu ngon cứ hưởng chớ đày thân ta.          

                                                VHKT                                                

 

 

  Ngày ngày vẫn cầm xiêm chầu mãn.

Chiều thường say nơi quán đầu sông.

Nợ rượu thì thật là đông.

Đời sống bẩy chục thì không mấy người.

Sau lá cây thấy đôi bướm lượn.

Chuồn chuồn bay, mượn nước tưới hoa.

Thời gian thấm thoát trôi qua.

Tạm thời cứ hưởng, thân ta chớ đầy.

VHKT

Cầm áo ngày ngày lúc mãn chầu.

Thường say túy lúy chốn sông đầu.

Kẻ nghiền thường nhật nhiều vô số.

Người sống bẩy mươi chẳng dễ  đâu.

Bươm bướm chập chờn sau lá thắm.

Chuồn chuồn thấp thoáng trước ao sâu.

Người ta thường nói thời gian chuyển.

Vui hưởng đời ta, chớ có sầu.

                                                                        VHKT



[1] Triều hồi: ở triều về.
[2] Điển: cầm cố.
[3] Trái: nợ nần
[4] Giáp điệp hay Hồ điệp đều là con bươm bướm.
[5] Điểm thủy: điểm nước.
[6] Thanh đình: chuồn chuồn.
[7] Khoản: chậm chạm, khoan thai.
[8] Mạc: đừng, chớ.
[9] Vi: 1. không theo, không nghe, không tuân, làm trái. 2. xa nhau

Thursday, March 14, 2013

Đỗ Phủ


Đỗ Phủ () sinh năm 712 mất năm 770, là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường. Nhưng đường công danh lận đận, hai lần thi tiến sĩ đều không được vì thời cuộc. Ông là một trong 4 nhà thơ lừng danh nhất của đời Đường. Tuy nhiên cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không chỉ thực hiện được điều này trong một thời gian ngắn rồi ông cùng cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755. Vì ly loạn ông có nhiều bài thơ tả lại nỗi nhớ nhung thân nhân. Trong 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động.. Tương truyền lúc cuối đời ông sống vô cùng cực khổ, nghèo nàm. Khi ông chết không thân nhân và nằm trên một chiếc xuồng rách nát.

曲江一首             

Khúc Giang nhất thủ


一片花飛減卻春       

Nhất phiến hoa phi giảm khước[1] xuân ,

風飄萬點正愁人   

Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân

且看欲盡花經眼-      

Thả[2] khan[3] dục tận hoa kinh[4] nhãn

莫厭傷多酒入唇   

Mạc[5] yếm[6] thương đa tửu nhập thần[7]

江上小堂巢翡翠-      

Giang thượng tiểu đường[8] sào[9] phỉ thuý[10]

花邊高塚臥麒麟   

Hoa biên cao trũng[11] ngoạ kỳ lân .

細推物理須行樂-      

Tế[12] suy[13] vật lý tu hành lạc

何用浮名絆此身   

Hà dụng phù danh bạn[14] thử[15] thân

杜甫-                                       Đỗ Phủ
 

          Khúc Giang 1

Một cánh hoa bay giảm chút xuân.                

Gió đưa vạn cánh thấy bâng khuâng.            

Cứ nhìn, cứ ngắm hoa rơi rụng.                    

Đừng có đau thương, rượu góp phần            

Nhà nhỏ, bên sông làm tổ én.                        

Hoa xinh, trên đống ngủ giường lân.             

Nghĩ sâu thế sự, đành vui hưởng.                  

Chớ để hư danh cột tấm thân.                                   

                                                 VHKT                                                                          

   

 Xuân tàn theo cánh hoa bay.

Gío đưa vạn cánh, lòng này buồn đau.

Hãy nhìn hoa rụng sân sau.

Ta đi lấy rượu mà mau giải sầu.

Chim én làm tổ sông sâu.

Trên gò, lân ngủ bên mầu hoa xinh. 

Nghĩ rồi, tu dưỡng tâm tình.

Đừng để danh lợi cột mình làm chi.

VHKT

 




[1] Khước: lùi, từ chối.
[2] Thả: 1. vừa. 2. cứ
[3] Khan hay Khán: nhìn
[4] Kinh: 1. dây vải. 2. kinh sách
[5] Mạc: đừng, chớ.
[6] Yếm: chán ghét
[7] Thần: môi.
[8] Đường: gian nhà lớn.
[9] Sào: tổ chim.
[10] Phỉ thúy: chim phỉ thúy
[11] Trủng = Trũng: 1. mồ, mả đắp cao. 2. lớn nhất, cao nhất
[12] Tế: 1. nhỏ bé. 2. tinh xảo. 3. mịn
[13] Suy = thôi: 1. đẩy. 2. đấm.3. lựa chọn, chọn lọc. 4. nhường cho. 5. tìm tòi.
[14] Bạn = Bán: 1. cùm lại, giữ lại. 2. vướng, vấp. 3. vật cản trở, chướng ngại vật
[15] Thử: này, bên này
[