CHƯƠNG CUỐI-
TRANH LUẬN (TT)
V. Kị mã Mông
Cổ đấu với bộ binh Đại Việt.
Có một lần người
có bút hiệu wla hỏi Loi H Dang trên diễn đàn của VVH: Nếu 20000 quân Việt đánh
với 5000 kị binh Mông Cổ trên cánh đồng khô thì liệu có thắng không? Vì lâu quá
chúng tôi chỉ nhớ mang máng như vậy. Bạn Loi Ho Dang cũng giải thích và yêu cầu
ai có thêm kiến thức bổ xung. Ngày ấy tôi xem qua, và vì quá bận nên không tham
gia vào các cuộc tranh luận đựơc và hơn nữa lúc tôi đọc được bài này thì cuộc
tranh luận đã xẩy ra lâu rồi.
Tất cả sử gia
trên thế giơi khi viết về Mông Cổ đều đưa ra các câu chuyện hào hứng với các
chiến thắng lẫy lừng của đạo quân kị binh này. Ngay từ khi mới khởi nghiệp,
Thành Cát Tư Hãn đã đánh bại đạo quân Tây Hạ. Jebe với hai vạn ki mã thôn tính
Tây Liêu. Với hai chục vạn kị binh, Thành Cát Tư Hãn vối các tướng Subutai,
Jebe đã tiêu diệt đạo khi binh đông gấp đôi của đế quốc Á Rập – Khwarezm đồng
thời xóa tên đề quốc này trên bản đồ thế giới. Jebe và Subutai đem hai vạn quân
vượt dãy Caucasus, đánh tan vương quốc Georgia với số quân dong gấp 3. Cũng đạo
quân này, hai tướng Subutai và Jebe đè bẹp bảy cạn quân khi binh của liên minh
Nga, rồi bao nhiêu chiến công hiển hách khác. Vì thế mà người đọc đều thần
thánh đạo quân ấy, nên chẳng mấy người nghĩ cho sâu với các chiến thuật uyển chuỷên
linh động.
Tôi xin trả lời
rằng thắng hay bại là tùy ngừơi tướng có biết các nguyên tắc lâm trận không.
Hay nói một cách khác người tướng phải có đầu óc sáng tạo, biết áp dụng chiến
thuật một cách uyển chuyển tùy theo địa thế (địa lợi) hay thời gian (thiên
thời) mà giao tranh với địch.
Nếu cứ đem 2 vạn
quân ra giữa cánh đồng khô mà chống với 5000 kị mã Mông Cổ thì chắc thua, vì
Mông Cổ rất thiện chiến trên địa thế này và kị binh tiến đánh rất có chiến
thuật volley ball, cùng tiến nhanh như gió cuốn mà quyển Life in Genghis Khan’s
Mogolia viết lại “Bliztkrieg” có
nghĩa là chiến tranh chớp nhoáng. Khi ta còn đang lớ ngớ, thì ào một cái 5000
con ngựa ầm ầm vượt qua rồi tên bay tứ hướng, giáo phóng bát phương đúng như
câu:
“Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành”
(trong Chinh Phụ Ngâm)
Chỉ vài phút sau
thì đoàn quân ấy biến mất. Bây giờ, ta phải lo băng bó thương binh. Lúc đang
làm việc tải thương thì lại ào một cái 5000 kị binh lại xuất hiện và cái cảnh
tấn công lại tái diễn.
Kết quả đúng như
bạn wla nghĩ.
Nhưng nếu lấy
chiến thuật của Hưng Đạo Vương ra áp dụng thì thắng.
Trong trận chiến
ngài dặn cho đào hầm bẫy ngựa.
Theo cách viết
trong sử ta không rõ kích thước cái hầm là bao nhiêu? Cứ như theo sự tưởng
tượng bình thường thì cái lỗ phải dài trên 2 m, rộng 1 m, sâu trên 1 m. Con
ngựa lọt xuống thì hết cách lên vì không có đà. Và nếu cắm thêm một vài cái
chông nữa thì con ngựa khó sống sót. Khi lọt vào hầm thì chắc chắn người kị mã
cũng không an toàn. Nhưng đào một lỗ như vậy thì 10 người phải bỏ ra nửa buổi
mới xong. Đó là trường hợp mình đang đóng quân và giặc sẽ đến vài ngày sau thì
mới đựơc.
Sẽ có người lý
luận: nếu mình đang di hành và giặc đang tiến tới và cách xa năm bẩy dặm thì
làm sao kịp. Khi ta đang đào thì giặc đã tới, lúc ấy các bẫy này làm huyệt chôn
ta thì đúng hơn.
Đúng như thế!
Mình phải giải bài toán khác với trường hợp đó.
Bây giờ ta giải
bài toán ấy dưới dạng khác. Vị tướng của ta đã biết trứơc mình sẽ gặp một đạo
kị binh khoảng 5000 quân Mông Cổ, nên chia đạo 20000 quân ra như sau:
·
Một vạn ngừơi lo đem cuốc, thuổng.
·
Năm ngàn đem cung nỏ.
·
Năm ngàn còn lại đem trường thương, đao kiếm và
hai túi nhỏ làm bằng mo cau hay tre đan.
Khi đang di hành
trên một ngọn đồi thoai thoải, rất lợi thế cho kị binh thì thám mã phi báo 5000
kị bịnh Mông Cổ sẽ đến trong khoảng tàn một cây nhang.
Khi biết tin
quân ta vào vùng này Mông Cổ sẽ chuẩn bị tấn công vì lợi địa cho kị binh. Còn
bên ta tướng chỉ huy lúc nào cũng chuẩn bị ứng chiến.
Tướng ta cho đội
cung nỏ lo bảo vệ; một vạn ngừơi mang cuốc thuổng sẽ có nhiệm vụ đào lỗ, và tùy
theo địa thế mà các tướng cho đào ở đâu để bẫy giặc. Lỗ không cần to, sâu; chỉ
rộng chừng 20 phân tây và cũng sâu khoảng 20, 30 phân tây là đủ, nhưng phải
nhiều và chi chít; cái này cách cái kia khoảng nửa thước tây. Đội đao thương lo
cho đất vào hai túi đem đi đổ phía sau trận thế. Ta lo lấy cỏ phủ lên các lỗ.
Trong khoảng thời gian tàn hơn nửa cây nhang, một người được huấn luyện, ít
nhất đào được 2 lỗ. Như vậy, ít nhất ta cũng được 20000 lỗ. Lính ta lập trận
thế chờ đợi, và bây giờ cuốc thuổng cũng trở thành vũ khí cùng đào lỗ chôn
người ngựa địch quân.
Trận thế
Để dụ giặc vào
bẫy, quân ta sẽ dàn như sau:
- Năm ngàn người
đội thương, kiếm, đao có trang bị các lá chắn (kiên) làm bằng mây đan, và rơm
bện phết bùn ứơt, ngồi đứng lộn xộn ngay bìa ngoài chỗ trận thế có lỗ đào. Sát
ngay phía sau là một tiểu đội xạ thủ nỏ đặc biệt độ 1000 người. Những ngừơi xạ
thủ này có sức mạnh nhất của ta, có thể chạy thật nhanh và đặc biệt sau lưng
đeo một một tấm lá chắn bằng mây và song thật khô, nhẹ dài quá mông, được đeo
lên vai cùng cột thật chặt vào thân. Khi bắn, họ không cần bắn nhanh, nhưng
được trang bị các nỏ thật mạnh để bắn thật xa.
- Đội cuốc thuổng
cũng đứng ngồi không qui củ tiếp theo trận thế, cách đội trên độ 20 thước.
- Đội cung, nỏ
chính đứng trong cùng trận thế, cách hàng tiền đạo đến 40 thứơc và đứng theo
hàng một.
Khi giặc tới
cách hàng lỗ bẫy khoảng 400 m thì dừng lại quan sát trận thế của ta. Bên ta
cũng cùng đứng dậy nhưng không đều đồng đều, kẻ trước, người sau, làm thành một
hàng ngang, như muốn ứng chiến. Nhìn vào đó địch sẽ có cảm tưởng ta bố trận
không chỉnh. Tướng địch cũng cho dàn hàng ngang chuẩn bị tấn công. Tuy nhiên,
các xạ thủ đội đặc biệt đã dùng cả hay tay dương cánh nỏ cứng như thép của họ
và đặt lên đó một mũi tên to dài, chuẩn bị. Bên Mông Cổ nhìn sang chỉ thấy đao
thương, còn đám xạ thủ được che lấp, nên họ không biết 1000 mũi tên chuẩn bị
đón họ.
Sau khi quan sát
chiến trường, tướng địch ra hiệu. Lập tức 5000 kị mã cùng hô vang như sấm phóng
tới phía ta.
Khi địch cách
250 thước, toán cuốc thuổng được lệnh rút lui có trật tự theo các kẽ giữa đội
cung thủ chính vào phía trong cùng. Địch cách 150 thước, hàng thương đao rút
lui đến trước hàng cung nỏ chính thì dừng lại và vẫn xếp hành một. Chỗ này cách
hàng ngoài cùng của các lỗ đào đúng tầm tên của ta, nhưng tên của Mông cổ chưa
tới ta được (sẽ giải thích ở phần so sánh cung Mông Cổ với nỏ Đại Việt). Đội
này sẽ dùng kiên bảo vệ cho họ và cả cung thủ bên cạnh. Lúc ấy, bên Mông Cổ
thấy 1000 cái nỏ đang hướng về họ, thì quá trễ, nhưng mặt khác tướng Mông Cổ
thấy số đó không nhằm nhò gì, nên vẫn ào ào tiến tới như gió cuốn.
Lúc quân Mông Cổ
lọt vào tầm nỏ thì các 1000 xạ thủ nỏ cùng phóng một lớp mưa tên. Bên địch cũng
dương cung phóng tên về phía ta. Nhưng ngay sau khi buông tên, Mông Cổ lại lắp
mũi tên khác để bắn, còn các xạ thủ ta sau khi phóng tên thì lập tức chạy thật
nhanh về hàng cuối của đội nỏ chính. Nhờ vào các tấm kiên đeo sau lưng, tên
địch không làm hại lính ta. Tấm kiên cột chắc cũng giúp họ chạy mà không vướng
víu, và chẳng cần lo giữ chúng khỏi rơi. Đội này cũng đã được huấn luyện chạy
không trật tự mà không loạn.
Nhìn vào cảnh
này giặc nghĩ là mình sợ mà chạy, nên chúng sẽ thừa thắng đuổi theo vì thấy đất
đai bằng phẳng và sẽ bị sa hố. Lẽ dĩ nhiên khi lui ta phải chừa đường cho kị
binh họ phóng, và chỗ đó chính là nơi ta lập thế trận. Ta phải hiểu rằng Mông
Cổ cưỡi ngựa tấn công thì họ chỉ thúc ngựa bằng bằng chân, còn hai tay sử dụng
cung. Chỗ nào giặc đã rơi vào thế trận, ta lại xông về chúng.
Sau khi, đội nỏ
đặc biệt rút thì các hàng chẵn của đội nỏ chính sẽ bước ngang một bước, như vậy
họ sẽ dễ bắn hơn. Cùng lúc ấy các tấm kiên được đưa xuống thấp một chút vừa cho
hàng đầu đội nỏ phóng tên. Khi đợt tên đã bay ra các tấm khiên lại đưa lên che
và hàng thứ hai đội nỏ làm việc, trong lúc ấy hàng đầu lắp tên và cứ tiếp tục
luân phiên.
Khi đang chạy
với vận tốc 30 km/h hay 8.3 m/s, nếu thụt chân vào một lỗ, ngựa sẽ không thể
rút chân lên kịp thời và sẽ lộn tung lên. Con ngựa Mông Cổ rất lớn nặng khoảng
trên 200 kg cộng thêm người lính và quân trang 60 kg. Động năng của cả người
lẫn ngựa tính theo công thức E = ½ mv2 (m là khối lượng tính kg lực
và v là vận tốc trung bình trong 1 giây). Với khối lượng người và ngựa 260 kg
lực cùng vận tốc 8.3 m/giây thì sẽ tạo ra gần 9000 joule, đủ sức tàn phá một
bức tường gạch dầy. Nhưng đây không có tường nên người và ngựa phải lãnh hậu
quả.
Nếu các vị có
xem những cuộc đua ngựa, đua xe thì có lẽ đã chứng kiến cái cảnh một con ngựa,
một cái xe chạy trước bị lâm nạn các con ngựa hay người lái xe nối sau sẽ chịu
ảnh hưởng thế nào. Khi ngựa sụt lỗ thì ngựa chắc phải què, người cỡi cũng chẳng
nguyên lành.
Đoàn lính Mông
Cổ, toán ngã lớp bị thương, tiến tới phía ta rất khó. Tuy nhiên, một số vẫn đến
gần ta. Đây lại là lúc, đội thương, kiếm làm việc. Các con ngựa của địch vẫn
không thể tung hoành vì các lỗ dưới chân. Ở đây ta tạo địa lợi đánh địch. Việc
đầu tiên là đâm ngựa đối thủ sau là quân giặc. Như vậy làm sao kị binh Mông Cổ
có thể thi hành chiến thuật volley ball?
Đã nhiều lần và nhiều nơi, một số người vẫn nghi ngờ
khả năng bộ binh Đại Việt không thể thắng đựơc kị binh Mông Cổ dù là quân số
đông hơn nhiều. Khi xem qua lịch sử Mông Cổ đánh bại tất cả các nước nhất là Âu
Châu dù là quân các nước này đông hơn quân Mông Cổ đã thế họ cũng có các đội kị
binh. Một mặt khác, các binh sĩ Âu Châu to và khỏe hơn người Đại Việt nhiều,
nên chuyện bộ binh Đại Việt đánh bại kị binh Mông Cổ là một câu chuyện hoang
đường
No comments:
Post a Comment