Tuesday, February 21, 2012

Súng thế kỷ 13

Trên diễn đàn Viện Việt Học, một số bạn đã đưa ra câu hỏi về súng đại bác thế kỉ 13, thời Mông Cổ và Nguyên Mông. Tôi đăng bài này trên đó nhưng không có hình ảnh. Nay đăng lên đây với các hình ảnh giải thích.

Trong thời gian viết quyển Đại Việt thắng Nguyên Mông (ĐVTNM), tôi đã có dịp tìm hiểu các vũ khí thế kỷ 13. Trong đó có súng đại bác của Mông Cổ.

Trong các sử Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn có nói tới việc quân Mông tiến tới bắc sông Thao, bắn súng đại bác làm quân ta hoảng sợ. Khi đọc tới đây chúng ta hình dung ra các loại súng mà các chiến hạm Âu Châu bắn nhau. Nhưng thực ra các súng này không có nòng như ta tưởng tượng.

Đây là đoạn tôi đăng trong quyển sách ấy:

“Mông Cổ có các loại vũ khí công thành là súng bắn đá (catapult), súng bắn dầu nóng, diêm sinh, và tiêu thạch (salpêtre) trộn với đất đá. Họ đã thu lượm các kỹ sư Trung Quốc để làm ra loại vũ khí này. Thường ta gọi là súng bắn đá, nhưng không phải là súng có nòng như các loại súng ngày nay ta thấy. Tuy nhiên đây là một loại vũ khí công thành rất hiệu nghiệm vào thời ấy. Có khi họ đem bắn cả thây người hay xác thú vật sang địch quân.

Dựa vào hình chụp của các website chúng tôi tạo ra các mẫu trong không gian ba chiều để các vị đọc giả dễ tửơng tượng. Chúng tôi không biết đây có phải là loại súng bắn đá mà Mông Cổ dùng hay không, tuy nhiên nguyên tắc là các chi tiết dưới đây chắc súng không khác biệt bao nhiêu.

Súng này dùng tới các vật liệu như gỗ tốt để làm sườn, bánh xe, cần phóng. Gỗ có tính đàn hồi, dai sẽ làm cánh cung, còn tóc, lông thú và vải sẽ dùng làm dây cung cũng như dây kéo cung. Dây kéo cung được cuốn quanh một trục; nhiều người kéo dây này làm cánh cung bị uốn cong. Tất cả sức mạnh được dự trữ dưới dạng thế năng. Lúc buông dây kéo ra cánh cung bật lại, và cục đá được phóng ra. Thế năng bây giờ biến thành động năng. Cục đá có thể phóng xa đến 150 m và nặng gần 50 kg.

Riêng loại súng bắn đá và dầu nóng, chúng tôi chưa tìm đâu ra được mẫu loại súng này. Theo các tài liệu như trong quyển “Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400” thì súng bắn dầu nóng cũng là súng bắn đá trên, nhưng khi bắn người ta trộn dầu nóng, thạch tiêu và diêm sinh vào đá vụn để làm bị thương người nhiều hơn một lượt.”

 
Bản đồ thiết kế súng bắn đá
Súng được mô tả trong trận Nishapur như sau:

“Lần này quân Mông trở lại đánh và với sự chuẩn bị kỹ càng. Dựa vào quyển Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400 thì Nishapur là xứ của sỏi đá, nhưng quân Mông đã chuyển đá về đây (cho súng công thành) và xếp từng đống như lúa gặt vụ mùa. Điều này làm quân phòng thủ rụng rời chân tay tuy là họ có sẵn 3000 nỏ, 300 máy phóng hoả tiễn, 300 súng bắn dầu nóng và tất cả trong tư thế chuẩn bị chiến đấu.”
Súng này còn được mô tả trong trận đánh thanh Baghdad.
Năm 1258, Hülagü quay xuống tấn công giáo chủ Hồi ở thành Baghdad. Thành này chống cự mãnh liệt, đến nỗi Mông Cổ bắn hết đá mà vẫn không chịu thua. Dân trong thành, khấp khởi mừng thầm thì quân Mông đốn các cây chà là (Palm), chặt khúc bắn tiếp. Cuối cùng thành cũng bị thất thủ; vua-giáo chủ những người Hồi Al-Musta’sim bị giết.
Một mẫu súng khác
Tuy nhiên các súng này cải tiến nhiều hơn. Lúc Mông Cổ tấn công Kim lần thứ hai và Nam Tống thì người Kim và Trung Quốc đã dùng súng này với các đạn là các kim loại đúc hình cầu trong chứa chất nổ và có ngòi như pháo. Các đạn này được để lên giá phóng (súng), đốt ngòi rồi phóng đi.
( Vì tranh tìm chưa ra nên xin hẹn đến ngày mai)

Nam Bắc du kí bài 64

Một buổi sáng, chúng tôi đặt chân lên con đường nhựa, dấu hiệu của sự văn minh, tuy rằng trên mặt đường có nhiều lỗ thủng, cũ kỷ và vô số chỗ cỏ mọc lan ra đến giữa lộ. Nhưng cũng chính nó là nơi có các phiền phức mới. Dọc đường chúng tôi gặp vài cái xe hơi cũ lưu thông. Các cái xe này thường xuyên bóp còi làm bầy dê chạy toán loạn, con thì lên núi, con thì xuống khe. Bố phải lo giữ mấy con dê còn lại, nên tôi phải lên núi, xuống khe đem từng nhóm dê lạc trở về đàn. Vất vả lắm tôi mới đem chúng lại con đường nhựa, khi cảm thấy đói xanh mặt.

Một hôm, vào xế trưa, trời đầy mây xám, chúng tôi dừng lại cho dê ăn trên một ngọn đồi, mà trên đỉnh đồi là một cái lô cốt cũ của Pháp. Hai bố con tôi leo lên ngồi ở giữa đỉnh lô cốt ăn cơm nguội, canh chừng dê và ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Rải rác trên đồi là những hầm hố nhiều cái đã sụp cùng vỏ đạn, súng gẫy và dây kẽm gai; tất cả đều hoen rỉ. Nằm chơ vơ trên các miệng hầm vài ba các nón sắt thủng lỗ bởi đạn xuyên. Đây là chứng tích của các trận đánh và đã gây nhiều tổn thất sinh mạng. Tôi thấy bùi ngùi thương cho những kẻ đã ra đi vĩnh viễn, bỏ lại sau lưng những người thân thích tràn đầy nước mắt. Cỏ đồi thấy đã sơ xác với sỏi đá đã thế còn cận đông nên nhiều chỗ vàng úa. Dưới chân đồi là những cánh đồng sâu đã gặt, nên chỉ còn những gốc rạ vàng nâu đong đưa qua lại trong gió heo may và hờ hững trước những cái đau thương mà chiến cuộc đã gây ra. Xa hơn vài ba làng mạc lờ mờ trong sương khói. Tất cả đã tạo nên một bức tranh ảm đạm, cơ đơn.


Monday, February 20, 2012

Thương Nhớ 6

Thương Nhớ 6



Tôi nhớ Vũng Tầu, tỉnh lẻ loi.

Về đây, nếp sống chẳng đua đòi.

Chiều tàn, Bãi Trước ngừơi thưa thớt.

Sáng sớm, Bãi Sau cát ngập đồi.



Tôi nhớ Long Sơn đạo họ Trần.

Vũng Tàu đảo xã, chẳng bao dân.

Núi rừng, cây cối bao quanh biển.

Đường đến nơi này thật cực thân.



Tôi thương Long Hải nước trong xanh.

Cùng bạn đạp xe, buổi sáng lành.

Thăm viếng thỏa lòng vùng đất lạ.

Vũng Tầu đi đến tuổi còn thanh.



Tôi thương Nước Ngọt đá ven bờ,

Chen cát trắng phau đẹp tợ mơ.

Sóng vỗ nước xanh, đồi đá dựng.

Một lần ghé lại, chẳng phai mờ.



Tôi thương Bà Rịa, lúc đi thi.

Bồng bột, tình yêu tuổi dạy thì.

Yêu mến người ta đâu dám ngỏ.

Rồi tình bay mất, chẳng còn chi.

Nam Bắc du kí bài 63

Một hôm, trời lành lạnh, chúng tôi đi tới một vùng hoang vu; một bên là các đồi đá trùng trùng; còn phía đối dịên 1à bãi sậy lau đầm lầy rồi tiếp theo cánh đồng hoang bạt ngàn. Lờ mờ tuốt chân mây thấy lũy tre, nhưng không biết đây là rừng hay làng mạc.

Bố nói:

- Con cho đàn dê ngừng lại ăn ven đồi. Còn ba đi sang bên kia đồi xem có làng mạc nhà cửa gì không?

Nói xong, ông tiếp tục đi bộ qua quả đồi kế tiếp để xem tình hình.

Tôi lên một gộp đá lưng chừng đồi chăn dê; cả một vùng bát ngát núi đồi, đồng hoang chỉ còn mình tôi với đàn dê. Gió chiều cận đông đem theo khí lạnh làm cánh đồng sậy uốn theo chiều gió. Tôi đột nhiên thấy cô đơn vô cùng. Tôi nhìn thấy mặt trời đã sắp lặn nhưng ráng trời thì sặc sỡ đỏ vàng nhìn thật đẹp mắt. Tôi nhìn về phía trước chợt nghĩ: “Hà Nội là nơi nào? Mẹ và hai em đang quây quần bên nhau ở đấy, tại sao ta lại ở đây? Tại sao nhà ta không về lại Tân Phúc để gần gũi bên nhau?” Quay mình lại sau, tôi cố hình dung ra ngôi làng bé bỏng. Các hình ảnh nghèo nàn, cực khổ ngày trước chợt hiện lên trong óc tôi. Tôi thấy tiếc phút vui đùa cùng hai em.

Khi  mặt trời đang lấp ló sau những vầng mây gần chân trời, bố quay lại nói với vẻ băn khoăn:

- Chẳng biết đêm nay dừng chân nơi đâu đây?



Rồi ra lệnh tôi tiếp tục đuổi đàn dê. Một lúc sau, khi mặt trời vừa tắt, chúng tôi thấy một ngôi chùa hoang.

Bố tôi nói:

- Đêm nay mình kém may mắn rồi con ạ. Mình đành phải ngủ đêm ở ngôi chùa này thôi.

Hai bố con tôi đuổi đàn dê vào sau lưng ngôi chùa và nhận thấy đó là một ngôi chùa bị bỏ hoang chắc lâu rồi, mái thủng vài nơi. Ngay trên nền gạch vỡ cỏ cũng đã mọc nhan nhản nhưng èo uột vì thiếu ánh nắng. Nhưng cũng tạm làm chỗ nghỉ đêm cho hai bố con. Bố tôi lo an bài đàn dê còn tôi lo nấu nướng ăn tối. Lấy gạo xong, tôi đi ra trước cửa chùa, xuống ao vo. Ăn cầm hơi cho khỏi quá đói xong, hai bố con ra sân đình ngắm cảnh.

Phía trước đình là một hồ sen nơi tôi vo gạo. Bình thường đình này chắc đẹp lắm, nhưng vì chiến tranh tàn phá nên tường và vách có nhiều lỗ thủng vì bom đạn. Bên hông có ngôi miếu nhỏ chẳng biết thờ ai. Cả khuôn viên không thấy tượng Phật hay chuông mõ gì cả. Cảnh vật thật tiêu diều làm tôi nhớ tới mẹ và hai em, chắc giờ này đang quây quần trong ngôi nhà nào đó Hà Nội. Tôi ao ước ngồi bên mẹ, cùng vui đùa cùng Cẩm Dung và Thắng; bất chợt tôi thở dài.

Đây thật là cảnh:

Friday, February 17, 2012

Thương Nhớ 5





Tôi thương Phủ Lý, một chiều đông.

Phố xá đơn sơ giữa ruộng đồng.

Khói xám vẩn vơ trên mái lá.

Rời đây vẫn thấy vấn vương lòng.



Tôi thương Hà Nội chiến tranh tàn.

Hoàn Kiếm tưng bừng, xuân mới sang.

Yên Phụ, bình minh trong khói xám.

Long Biên, chạng vạng dưới sương lam.



Tôi nhớ Hải Dương đất cắt hai.

Đi qua Phạm Xá lúc chiều dài.

Phập phồng lo sợ cho cha mẹ.

Trước mắt Hải Phòng chẳng biết ai.



Tôi nhớ Hải Phòng, hạ lại gần.

Phố phường tấp nập buổi tàn xuân.

Chiều về, nứơc lớn tràn vô cảng.

Thuyền nhỏ lênh đênh, sóng trắng ngần.



Tôi nhớ Sài Gòn của lệ hoa.

Trai thanh, nữ tú buổi chiều tà.

Bến Thành, Nguyễn Huệ người đông đúc.

Ngỏ hẻm ồn ào, chật người ta.

Nam Bắc du kí bài 62

Nghỉ lại đây thêm vài giờ nữa cho dê ăn, cùng cho con chó ít cơm thừa. Đến gần 4 giờ chiều, hai bố con lại tiếp tục cuộc hành trình. Chúng tôi vượt qua một số làng mạc, rồi đến một vùng hoang vu, hai bên đường toàn là những cánh đồng sâu nối tiếp. Khi mặt trời gần lặn và gió bắc bắt đầu thổi chúng tôi thấy xa xa có vài túp lều tranh bên cạnh đường, nổi bật lên giữa cánh đồng sâu mênh mông vàng ánh vì phản chiếu mầu ráng hoàng hôn.

Càng đến gần, chúng tôi nhận ra đó là mấy quán trọ nghèo nàn.

Bố tôi nói:

- Con canh chừng đàn dê để ba đến thương lượng có thể ngủ đêm ở đây hay không?

Tôi cho đàn dê gặm cỏ ven đường, trong khi tần ngần nhìn những cọng rạ lắc lư trên mặt nước mỗi khi có cơn gió lạnh căm căm thổi tới. Tôi cảm thấy chúng lẻ loi vô cùng, và đột nhiên tôi thấy thèm muốn cảnh sum họp ấm cúng của gia đình với cả bố, mẹ, cùng em tôi.

Bất chợt tiếng bố tôi vang lên:

- Con lo buộc mấy con dê đầu đàn lại, rồi vào quán đầu tiên gặp ba.

Tôi buộc mấy con dê đực to vào vài bụi cây ven đường, xách lồng chó con, rồi đi vào quán trọ.

Quán này rất đơn sơ, với vách bằng sậy đan nên gió bấc lạnh xuyên qua vách làm tôi lạnh run. Bên trong nhà có hai cái bàn tre, vài cái ghế gỗ ọp ẹp, ở góc nhà có một cái giường tre. Phía sau giường tre là cái vách lá mà có lẽ đàng sau vách là nhà bếp và buồng ngủ của gia đình chủ quán.

Tôi ngồi xuống cái ghế đối diện với bố, để chờ chủ quán mang cơm lên.

Bố nhìn tôi hỏi:

- Con có mỏi không?

- Có ba. Mình đã cách trại bao xa rồi ba?

Bố nhíu mày suy nghĩ:

- Độ 15, 17 cây số thôi.

- Sao con thấy xa quá.

- Thật ra mình đuổi dê không thể đi theo đường bình thường. Lúc chúng chạy con phải lên dốc xuống đèo gom chúng lại, nên đường có thể dài gấp đôi là ít. Mình còn phải chăn dê dọc đường, nên vận tốc rất chậm.

- Vậy tính ra trong một ngày, mình đã di chuyển một khoảng dài đến 40, hay 50 cây số một ngày là ít. Ba nhỉ?

- Đúng đó con.

Tôi tò mò hỏi:

- Từ đây đến Nam Định bao nhiêu cây số hả ba?

- Ba nghĩ khoảng 180 hay 200 cây số gì đó.

Tôi lẩm tính, rồi nói:

- Mình đi càng ngày càng mệt, nên chắc phải nửa tháng mình mới tới đó phải không ba?

Bố gật đầu:

- Có thể như vậy. Chỉ tội cho con mới hơn 12 tuổi đầu đã phải trăm dặm ruổi rong.

Một lúc sau, chủ quán mang lên một tô cơm nóng hổi, một đĩa rau muống luộc, một tô nước rau muống và một đĩa tép rang. Bữa cơm tuy đạm bạc, nhưng đối với tôi nó thật quả là bữa tiệc thịnh soạn và ngon vô cùng.

Cơm nước xong hai bố con tôi lo đi ngủ. Nằm trên giường lạ thật là khó ngủ, tôi trằn trọc mãi mà không ngủ nổi. Lâu lâu một cơn gió lạnh rít lên qua vách sậy làm tôi chạnh lòng thương hại bầy dê đang nằm giữa trời, chẳng có gì che trở.

Sáng ngày hôm sau, hai bố con lại tiếp tục lên đường.

Chiều tối vài ngày hôm sau, chúng tôi tới cầu Đò Lèn, đó là một cầu sắt cho xe lửa chạy qua sông Lèn, nối liền từ Thanh Hóa đến Ninh Bình. Cầu này đã bị Việt Minh phá sập trong chiến dịch tiêu thổ kháng chiến. Trong bóng tối, tôi chỉ thấy một khung sắt đen thùi nằm gác nên hai bờ còn phần khác thì ở dưới sông. Bên kia sông thấy mấy quán đã đốt đèn, chập chờn trong bóng tối lạnh lẽo. Bố lại đi tìm đò ngang để thuê họ chở dê qua sông và tôi lại trông dê ăn. Sau nửa giờ bố trở lại và nói tôi đuổi dê ra bờ sông. Đây là một công việc cực nhọc vì chúng tôi phải lùa, bắt từng con dê một, bế chúng và đem nó xuống chiếc đò ngang mỏng manh.

Chúng tôi phải hoàn tất công việc này với mọi giá để đến quán trọ bên kia sông. Vì thế chúng tôi phải cố sức làm việc, dù rằng mệt và đói muốn lả. Đến khoảng 9 giờ đêm, chúng tôi vượt qua được con sông và nghỉ tại một quán trọ tương đối tươm tất hơn mấy quán trước. Nhưng một công việc khác xẩy ra là mấy con mới đẻ quá yếu, nên chúng tôi lại phải tốn một số thời gian sau bữa cơm để lo cho chúng. Quả tình lúc ấy mắt tôi mở không ra vì quá mệt sau một ngày dài vật lộn với đàn dê trên đường đi hay trên đồi núi, hẻm sâu. Lúc quá nửa đêm, mọi việc mới ổn thỏa và tôi mới được phép lên giường khi chân tay rã rượi. Ngủ được vài giờ thì trởi đã sáng, bố con lại lục đục lên đường.
Tôi nhớ Đò Lèn một tối đông.
Đuổi dê xuống bến, gió may lồng.
Co ro làm việc, đèn không có.
Ruột đói như cào, phải cố xong.

Thursday, February 16, 2012

Thương Nhớ 4

Tôi nhớ Thọ Xuân, đã tối mù.

Trên đê, đường cái cạnh sông Chu.

Đuổi dê qua đó tìm nơi nghỉ.

Gió lạnh tran về báo cuối thu.



Tôi nhớ Đò Lèn một tối đông.

Đuổi dê xuống bến, gió may lồng.

Co ro làm việc, đèn không có.

Ruột đói như cào, phải cố xong.



Tôi thương Phát Diệm lúc đông sang.

Thuyền ghé nơi đây dưới nắng tàn.

Nhà cất trên cầu, qua sóng nước.

Giáo đường vách đá, thật khang trang.



Tôi nhớ Ninh Bình, quê ngoại tôi.

Về thăm nơi ấy thuả xa xôi.

Cánh Diều, lau lách đùa theo gió.

Sông Đáy, bèo xanh cuốn cuối trời.



Tôi thương Nam Định thủa thanh bình.

Ghé lại mươi ngày, sau chiến chinh.

Thành phố còn nguyên trong kháng chiến.

Phố phường buôn bán vẫn phồn vinh.