CHƯƠNG 03 (tt)
2. Trận đánh
Mohi ở Hung
Tin quân Mông
tới, vua Béla IV triệu tập quân đội kể cả quân của Cuman do Koten (Khoten) lãnh
đạo.
Ngoài lực lượng
chính của vua Béla IV, quân Hung còn có quân của công tước Frederick II
Babenberg của nước Áo; quân của hoàng tử Kálmán
là em vua Béla, đang làm công tước Slavonia (Slovakia), và tổng giám mục Ugrin Csák
dẫn các hiệp sĩ Templar. Theo
Wikipedia, All Empires online History hay Military History. About.com thì số
quân của Hung tổng cộng chừng 80000, và quân số của Mông Cổ là 70000. Một vài
tài liệu khác lại viết số quân của Hung là 15000 quân và quân Mông Cổ ở đây
khoảng 30000 người. Vậy con số thực sự vẫn là mơ hồ. Thật ra lực lượng Hung có
thể rất lớn, nhưng vì nhiều nam tước, bá tước vốn ghét vua Béla vì chuyện tịch
thu lại tài sản, phá bỏ luật Golden Bull, nên không đem quân tham chiến. Họ
muốn chứng kiến sự sụp đổ của triều đình Hung trước quân Mông Cổ. Một số khác ở
miền Transylvania lại lo bảo vệ địa phương vì cánh quân phương nam của Mông Cổ
cùng sự hiện diện của các bô lạc khó trị Cuman.
Ngày 12 tháng 3,
năm 1241, quân đội của Subutai và Batu đánh bại đạo quân của tiểu vương
Palatine ở đèo Verecke trên dãy núi Carpathian, rồi nhắm Hung tiến tới.
Cùng khi ấy, đám
dân Cumans và người địa phương chẳng mấy tin nhau. Người Cumans thì nghĩ dân
Hung còn kì thị, bóc lột họ như nô lệ. Người Hung lại nghĩ dân Cumans là tay
sai, gián điệp cho Mông Cổ và là nguyên nhân của chiến tranh. Khi thấy Quân
Mông Cổ thành công chọc thủng phòng tuyến phương nam, dân Hung ghét đám Cumans
vô cùng nên đã giết chết lãnh tụ Koten. Dân Cumans nổi loạn cướp phá giết chóc
dân địa phương rồi chạy sâu xuống phương nam thay vì lên Pest hợp với quan vua
Béla.
Ngày 15 tháng 3,
đội tiên phong của Mông Cổ đã tới Pest[1],
đánh phá các vùng lân cận. vua Béla cấm không cho quân đội của ông ra đánh, vì
lý do chưa chuẩn bị sẵn sàng. Trong khi ấy, Frederick II, không đếm xỉa đến
lệnh ấy, tung quân đánh và thắng vài trận nhỏ. Điều này làm Béla mất mặt vì bị
coi như hèn nhát. Sau các trận thắng ấy quận công Frederick II đem quân mình về
Áo. Tổng giám mục Ugrin Csák của Kalocsa, thấy vậy cũng noi gương. Ông đem
các hiệp sĩ Templar định tấn công quân Mông bất ngờ, nhưng bị vây hãm thật
nguy. Sau quân Mông mở một đừơng thì toán quân này chạy thoát nhưng lại bị lừa
vào một vùng sình lầy. Kết quả ông cùng đám hiệp sĩ Templar với các giáp trụ
nặng nề bị sa lầy và một số may mắn thoát chết, trong đó có vị tổng giám mục.
Sau một tuần di
chuyển, vào đầu tháng 4, quân của vua Béla đã đến bờ tây của sông Sajó đang
ngập lụt. Ông cho quây các chiến xa làm một tường thành bảo vệ, rồi đóng quân
chờ thêm viện binh cùng nhu yếu phẩm. Cùng khi ấy, quân Mông dưới sự chỉ huy
của tướng Subutai đến bờ đông con sông này.
Theo Military
History. About.com và wikipedia thì ngày 10 tháng 4, một người nô lệ của Mông
cổ trốn thoát chạy sang Hung báo tin cho vua Béla rằng quân Mông sẽ tấn công
vào đêm trên cầu gần đó. Ông này vẫn không tin đó là một trận đánh quyết định
mà nghĩ rằng là đơn vị trinh sát của Mông Cổ thôi.
Các tướng dưới
quyền đều trách vua Béla là không chịu ra lệnh tấn công. Chiều tối ngày 10
tháng 4, ông hoàng Kálmán và tổng giám mục Ugrin Csák lại đem quân đánh bất ngờ
ở cầu. Họ đi âm thầm trong bóng đêm, nên quân Mông không biết. Vả lại Mông Cổ
cũng không thích đánh đêm vì giới hạn của cung thủ cũng như ngựa. Đến nửa đêm
thì quân Hung tới cây cầu dài khoảng 200m này. Lúc ấy, quân Mông đang chuẩn bị
vượt sông mà không đề phòng việc bị tấn công. Theo dự đoán thì có lẽ Subutai
muốn tấn công quân đội Hung lúc bình minh. Hai cánh quân của ông hoàng Kálmán
và tổng giám mục Ugrin Csák dùng ná (nỏ) tấn công dữ dội. Mông Cổ bị bất ngờ
nên bị các tên từ nỏ bắn thiệt hại nặng nề. Kết quả Mông Cổ bị mất một tướng
cấp thấp tên Bakatu. Kálmán và tổng giám mục Ugrin Csák để lại một đơn vị nhỏ
để canh cầu; số còn lại trở về trại mở tiệc ăn mừng.
Vì
thất bại ấy, Mông Cổ phải đổi kế hoạch tấn công. Subutai liền chia quân làm ba
đạo: đạo thứ nhất giao cho Shiban (Sejban) chỉ huy, đi lên phía bắc sông Sajó
cách cầu khoảng 4 km, rồi vượt sông, đánh vào hông trái của Hung. Subutai thì
đem cánh thứ hai đi về phía nam, và cách cầu trên 5 km. Subutai sẽ cho làm một
cây cầu dã chiến để vượt sông. Cánh thứ ba thì do Batu chỉ huy với các vũ khí
nặng đánh thẳng qua cầu. Chuyện vượt cầu cũng không phải là dễ vì cầu dài mà
hẹp. Hơn nữa tầm bắn của nỏ rất xa làm quân Mông không còn lợi điểm dùng vận
tốc của ngựa. Batu liền cho đem súng bắn đá tới. Theo các trang sử viết lại thì
đây có lẽ là lần đầu tiên mà người Hung thấy súng bắn đá. Trận đánh vẫn không có thắng lợi cho Mông Cổ,
dù là cánh quân của Shiban đã đánh vào hông của quân Hung. Đến 8 giờ sáng, quân
Mông tiến được qua cầu, nhưng bây giờ thì quân Hung được lệnh tấn công, nên
quân Béla tràn ngập chiến trường. Kị binh Batu không có thế vì sau lưng là
sông. Lính Mông chết nhiều và chính Batu cũng tị nữa mất mạng. Diên trì một
thời gian khá lâu vì cho làm cầu, nhưng rồi cầu cũng được làm xong và Subutai
cho quân vượt sông. Khi đạo quân này đánh từ dưới lên, thì quân Hung chịu không
nổi phải thối lui về trại.
Bây
giờ thì Mông Cổ vây hãm với những đợt tấn công bóng rổ. Tuy nhiên họ vẫn không
tiêu diệt được địch quân, và cũng bị tổn thất nặng. Subutai liền mở phía tây,
quân Hung vội tràn về phía ấy chạy trốn. Đây chính là binh pháp của Tôn Tử: Lúc
giặc ở cùng đường đừng đánh mà hãy mở. Vì nếu dồn địch quân vào chân tường thì
chúng sẽ chống tới chết. Mở đường thì chúng sẽ chạy, và khi chạy thì ai lo thân
nấy hết còn nương tựa vào nhau để sống chết cùng hưởng. Một mặt khác, nếu phía
mở mà địch quân không có lợi địa thì thật là một thảm họa cho địch. Quân Hung
chạy về hướng ấy phải vượt con sông Hejó, rồi vào cánh đồng lầy. Ngựa của các
hiệp sĩ Hung thì bị thương, mà mặc giáp thì quá nặng làm sao mà bơi hay chạy,
nên họ đành phải bỏ giáp. Nhưng đây lại là một hiểm họa khác đến với họ. Họ
không còn giáp thì làm sao chịu nổi tên hay giáo của Mông Cổ? Kết quả là lính
nặng của Mông Cổ cứ cỡi ngựa đuổi theo, rồi dùng giáo xuyên người như xuyên
thịt.
Tổng
kết trận đánh thì cũng có nhiều con số dị biệt nên wikipedia đã dưa ra con số
phỏng định từ 10000 dến 40000 cho Hung và từ số nhỏ đến 1000 cho Mông Cổ. Vua
Béla và người em Kalmán chạy thoát[1],
nhưng ông hoàng này đã chết sau một thời gian. Tổng giám mục Ugrin thì chết
trong đám loạn quân.
Vua
Béla chạy sang Áo để tránh nạn thì công tước Frederick II bắt giam lại. Ông này
đòi vua Béla phải cắt ba phần đất thuộc Hung để sát nhập vào Áo. Vua Bela không
chịu lại chạy xuống phía nam của Hung, đến cổ thành Trogir ven bờ biển
Adriatic, một phần đất cuối cùng của Hung. Tại đây, ông cũng đã họp lại với một
số nhà quí tộc Hung đã chạy trốn xuống đó.
Sau trận thắng
này quân Mông lần lượt đi tàn phá khắp vương quốc này và thảo kế hoạch đánh
chiếm La Mã, Đức và Áo. Theo các trang trên Internet thì khoảng ¼ dân chúng
Hung bị giết, còn theo “Nations in Transition Hungary” của Raymond Hill thì gần
½ dân Hung đã bị tàn sát.
Mãi
năm sau, 1242, chúng đột nhiên rút khỏi Hung. Sự rút lui này cũng gây ra nhiều
tranh luận. Số đông thì cho là Subutai nhận được tin đại hãn Ögedai băng hà,
nên phải để Batu, Kadan quay về Krakorum dự vào việc bầu một đại hãn mới. Nhưng
một số khác lại nói đó là lý do không chính xác. Quân Mông vẫn không kiểm soát
được Hung. Dân Hung di tản vào các vùng núi non, đầm lầy, thành trì kiên cố,
hay các thành đất được xây trên các đỉnh núi đồi hiểm trở, rồi nổi dạy chống
lại họ. Nhiều thành trì xây bằng đá kiên cố mọc lên, quân Mông không làm gì
được. Người Hung bây giờ lại dùng chiến thuật du kích làm tổn hại quân Mông, và
có lần các hộ vệ của Batu cũng bị lột da. Còn chính Batu đã phải trày vi, tróc
vẩy mới thoát chết. Khi họ rút thì bị phục kích trên dãy núi Carpathian.
Nhờ
vào sự tái phục hồi các thành trì bằng đá mà người Hung đã đẩy lùi cuộc xâm
lăng thứ 2 của Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của Nogai (Nogay) cháu cố của Thành
Cát Tư Hãn năm 1284.
Quân Mông rút
khỏi Hung rồi về lại miền nam nước Nga hiện nay để lập một vùng ngự trị mới gọi
là White Horde, và Blue Horde. Cuối cùng, cả hai horde trên nhập lại thành
Golden Horde và kinh đô là Sarai (Saray) bên bờ sông Volga (Gần kinh đào
Volga-Don ngày nay). Đây cũng là thảo nguyên và còn đẹp đẽ, rộng lớn hơn thảo
nguyên Mông Cổ, bao gồm từ Kazakhstan đến phía tây biển Hắc Hải. Khi Őgedei (Oa Khoát Đài),
qua đời thì Batu là một ngôi sao sáng để được tuyển làm Đại Hãn, nhưng ông đã
từ chối với lý do thích thảo nguyên này hơn Mông Cổ. Vì nếu người nào được bầu
làm Đại Hãn thì người này phải trở về thủ đô Krakorum ở Mông Cổ. Tất cả các
lãnh địa của Nga, Armenia, Georgia, Circassia, Alans,
Crimean Greeks, và các bộ lạc của các dân ở vùng Balkan Bulgars cũng như Serbs (Nam Tư) phải hàng
năm triều cống rất nặng nề cho các chúa Mông Cổ ở Sarai, kể cả Novgorod, nơi
quân Mông chưa đánh tới. Golden Horde là một tiểu đế quốc Mông Cổ tồn tại lâu
nhất kéo dài mãi cho tới năm 1499.
[1] Thành
phố Pest nằm bên bờ đông sông Danube , bên kia
bờ tây sông là thành phố Buda. Đến thế kỷ XVII, vua Hung nhập hai thành phố lại
lấy tên là Budapest .
No comments:
Post a Comment