Monday, March 5, 2012

Thương Nhớ 13

Tôi mến Cái Hằng, Nhuận Phú Tân.

Về đây trồng thuốc biết bao lần.

Sáng lo tưới nước rồi vun xới.

Chiều tính bắt sâu với bón phân.
 

Tôi nhớ nhà tù Cựu Chiến Binh.

Người đông phòng hẹp lại hôi rình.

Mồ hôi, trời nóng, người như tắm.

Nằm ngủ sát nhau, thật bực mình.
 

Tôi nhớ Hàm Tân phố cát đầy.

Tìm thuyền vượt biển phải vào đây.

Gian nan, nguy hiểm, người lường gạt.

Tiền của bay đi, bạn mất lây.


Tôi nhớ Bình Ba giữa rừng già.

Bằng lăng bông tím, độ ra hoa.

Vượt biên bị bắt giam nơi ấy.

Trồng bắp trọn mùa được thả ra.


Tôi thương Bãi Trước đậu thuyền câu.

Cá đối hớt đêm những buổi đầu.

Câu bủa lưới rùng đầy hiểm ngặt.

Thuyền chìm, mất máy chứa bao sầu.

Nam Bắc du kí bài 72


Điệp và cháu nội Lili Trước trụ sở thôn

Quay lại Tân Phúc

Phần hai thế kỉ tợ như phi.
Tân Phúc ngày nay thấy được gì ?
      Đễn rộng ngày xưa không thấy nữa.
Đồi thưa thủa ấy chẳng còn chi.
      Chòm đa đầu xóm đâu tồn tại.
Cầu trúc cuối thôn cũng biến đi.
      Cố sức đi tìm hình bóng cũ.
Nắng chiều gom gió nhuốm sầu bi.
                                                   VHKT-  Tháng 12- 2005                                                                                                                                      

Khi đang đứng nói chuyện, một thanh niên trên 20 mươi lái xe honda lại gần tôi nói:
 - Chú muốn đi chụp hình quanh đây không?
       Câu hỏi của cậu thật hợp ý tôi.
       Tôi gật đầu:
     - Cháu biết rừng Cây Si, Rừng giếng Oro, Rừng Tre, Mả Dẻ không?
     - Các nơi này cháu biết vì nghe người lớn kể lại thôi. Chú muốn đến đó hả.
     - Ừ, tôi muốn tìm kỉ niệm thôi.
     Cậu chở tôi đi về phía nam một lúc thì ngừng lại.
     Trước mặt chúng tôi là một cánh đồng lầy ngừng bên kia là khu rừng cây cối um tùm. Tôi hỏi:
     -  Đây là đâu?
     -   Dạ đây là rừng Cây Si.
     -   Thế cây  Si đâu rồi?
      -Dạ bị chặt rồi.
Bất chợt tôi thở dài, hồi tưởng lại câu chuyện trăn trâu của hơn 50 năm trước.

Ngày nay, tai đây có các phương tiện chuyên trở cho các
vật nặng chứ không phải gánh gồng như trước

Sunday, March 4, 2012

Nam Bắc du kí bài 71

Quay về chuyến du hành:
Tân Phúc nhìn từ Nông Giang 2005.
Ngày xưa, đây là con đường trên bờ ruộng- (bờ mẫu.)
Thắng dẫn đầu, cháu nôi Lili- Sendy và Rich Võ (con trai) Đang đi ngang cánh đồng sâu của thủa 49-54.

Vào đến thôn, anh em chúng tôi thật bất ngờ.
       Nhà cửa trong thôn thấy toàn là nhà ngói; có cái là nhà lầu, không còn nhà tranh lụp sụp như độ nào. Chúng tôi vào thăm nhà một nông dân, ông Yên, họ cũng còn nhớ đến gia đình chúng tôi. Gia đình này có hai hai ngôi nhà gạch mái ngói, bao lấy một sân gạch đang phơi sắn. Tôi nghĩ họ phơi sắn để ăn độn, nhưng họ cho biết sắn này bán cho các xửơng làm bột ngọt. Chứ dân nay đã đủ thóc gạo ăn, không đói như trước.



Phải sang trái: bé Lili (quần đỏ)- Sendy, lão Yên dân thôn- chống gậy, Minh Xuân đội nón trắng, Rick quần jean. Tất cả đang đứng ngã ba thôn Tân Phúc.



Tôi hỏi thăm về các mục đồng thủa xưa bạn thân của tôi. Lạc thì nay đã là bà cụ lấy chồng ở một nơi thật xa. Còn riêng Viện, tên mục đồng đen thùi như Mỹ đen thì chết trận rồi.

Dân cư nơi đây tiếp đón chúng tôi với một tấm lòng ấm áp. Họ nói chỉ hơn nửa tháng trước, nhân một dịp gặp gỡ họ đã nhắc tới gia đình tôi. Nhà nào nhà nấy cũng đã có điện và TV đen trắng. Vậy là nơi đây có điện. Dân làng không biết đến Hà Nội là cái gì chứ đừng nói chuyện tới Mỹ. Chẳng ai gửi tiền về cho họ mà họ đã có một nếp sống tương đối vững chắc. Cám ơn Trời Phật!
     

“Cầu xin Trời Phật đổi chiều,
Để dân làng khỏi tiêu điều lầm than.” 

Cẩm Dung mặc quần áo và đội mũ đậm,khoác vai một bà già, cùng Thắng đang vào thăm dân quê.

    Họ dẫn anh em chúng tôi tới nền nhà cũ màchúng tôi đã từng lập trại. Chúng tôi cũng chẳng nhãn ra một cái gì sót lại. Tại đây người cư ngụ mới cũng có hai ngôi nhà gạch và một nhà tranh làm chuồng bò. Đó là nhà tranh duy nhất mà chúng tôi gặp.



Đúng như ước nguyện của tôi:

Friday, March 2, 2012

Thương Nhớ 12

Tôi nhớ Lâm Đồng một xứ trà.

Cao nguyên, rừng núi, ít người ta.

Êm đềm khí hậu, người vui thích.

Lý tưởng, một nơi để giưỡng già.
 

Tôi nhớ Trà Vinh lúc nắng tà.

Bên bờ sông Cổ mịt mù xa.

Gác thi về đấy làm công vụ.

Bún mắm bên lề, kẻ ghé qua.
 

Tôi nhớ Long Xuyên lúc hạ về.

Thơm mùi hoa lúa của đồng quê.

Phố phường gọn ghẽ, người vui vẻ.

Chợ Mới quê em, mái tóc thề.
 

Tôi nhớ Long An một độ nào.

Ra sông, chiều tối ngắm trăng sao.

Sông Vàm tưới nước bao đồng ruộng.

Dứa bán bên cầu, vị ngọt ngào.
 

Tôi nhớ trại Thơm ở Bến tre.

Bao ngày học tập giữa trưa hè.

Vợ con xa cách, lòng nhung nhớ.

Chuyển đến Trà Nòng rợp lá me.

Nam Bắc du kí bài 70


Bài thơ tranh làng tôi

 Từ năm 1950, chúng tôi làm ruộng sinh sống nên ba chị em tôi lao vào làm việc của người lớn như nhổ mạ, gánh phân, cấy lúa, gặt lúa, gánh lúa rồi dập lúa. Lúc ấy người lớn nhất tên Mộng Lan mới 13 tuổi, tôi lên 10 và em gái tôi Thanh Mai lên 9. Tôi không quên nổi những ngày trưa hè oi ả, ba chị em gánh các gánh phân trâu bò vào Mả Dẻ, Cửa Khâu xa 5, 6 cây số. Các gánh nặng nề đè lên vai bé bỏng của chúng tôi đến đỏ bầm. Chúng tôi cắn răng chạy thật mau để bớt chút thời gian.

Mỗi lần dừng chân lại nghỉ mệt, lấy nước lọc đựng trong ống tre ra uống, lau bớt mồ hồi, lấy nón lá quạt cho bớt nóng, tôi nhẩm đếm: “Còn 3 ngọn đồi mới tới ruộng.” Mỗi một quả đồi dài hơn cây số. Trời! Làm sao đoạn đường ngắn đi bây giờ? Tôi chỉ mong có quyển sách “Ước” muốn gì được nấy thì điều đầu tiên ước là đường đi ngắn hơn, lại có một cục kẹo ngậm cho thật ngon. Nhưng than ôi đường không thay đổi, kẹo là chuyện hão huyền.

Mùa thu , tháng 10, 11 là vụ gặt lúa, ba chị em lại vào nơi đây gặt lúa rồi gánh đem về. Các gánh lúa một lần nữa làm rát vai chúng tôi dứoi cái lạnh cóng.



Bài thơ gánh lúa.

Năm tôi lên hơn 12 tuổi tôi phải đi cày, bừa. Đây là công việc của các thanh niên trai tráng làm, nhưng nhà tôi làm gì có trai tráng. Chị tôi đã làm công việc này lúc chưa tới 16 tuổi, nhưng sau đó chị xung phong đi bộ đội, nên công việc chuyển cho thằng bé gầy guộc làm thay. Lúc ấy tôi không cao hơn cái cày và cũng không nặng hơn nó bao nhiêu.

  

Thơ đi cày.

 Chúng tôi sống nơi đây cho đến sau khi tiếp thu Hà Nội, tháng 11 năm 1954. Ngôi làng có tên Tan Phúc, hạnh phúc mới, nhưng chúng tôi đã không biết bao nhiêu kỷ niệm tran hòa nước mắt đặc biệt là tôi.

Dân Tân Phúc nhìn chị em tôi làm việc đã phục sát đất. Vì trong làng những trẻ nhỏ như Cẩm Dung và tôi chỉ làm việc đánh cỏ, nhổ mạ và chăn trâu bò là tối đa nhưng chưa thể gánh lúa gánh phân đi xa, chứ đừng nói chuyện cày bừa. Đây là công việc của người lớn.

Đến ngày rời khỏi đây tôi không cầm nổi nước mắt vì thương ngôi làng nghèo nàn này. Đây không phải là nơi chúng tôi sinh ra, cũng chẳng phải sinh sống từ thủa lọt lòng hay quê nội ngoại, nhưng ai hỏi làng anh ở đâu? Tên gì? Chúng tôi không ngần ngại trả lời: “Làng tôi gần Lam Sơn, Thanh Hóa, tên nó thật yêu kiều: Tân Phúc.” Dù đã quá ư cực nhọc, nhưng tôi vẫn hãnh diện đã làm nhưng việc mà những người cùng trang lứa không làm nổi, chịu đựng những cay đắng mà các bạn cùng tuổi không bị.

Thursday, March 1, 2012

Thương Nhớ 11

Tôi nhớ Cần Thơ, sáng mỹ miều.

Ninh Kiều, sông Hậu đượm cô liêu.

Cô đơn cô gái bên bờ vắng.

Lờ lững thuyền câu dưới nắng chiều.


Tôi nhớ Nha Trang một  tháng  hè.

Tháp Bà nhìn xuống thấy nhiều ghe,

Bên cầu Xóm Bóng, chùa trên đá.

Thấp thoáng trong mù, thấy đảo Tre.


Tôi nhớ Ninh Hòa một chuyến đi.

Xuống ga lạc vợ vẫn còn ghi.

Thầy trò, cuốc bộ cùng nhau kiếm.

Phờ phạc mày râu chẳng thấy gì.


Tôi thương Hòn Khói đất Ninh Hòa.

Ghé lại trên đường xã Bá Hà.

Tan nát lâu đài, đồi cát trắng.

Hai bên ruộng muối, ít người qua.


 Tôi thương Đà Lạt, sáng sương mờ.

Than Thở, Xuân Hương đẹp tợ mơ.

Đồi núi, thác Prenn, vườn mận chín.

Thông reo triền núi tạo vần thơ.

Nam Bắc du kí bài 69

 Đây là hồi ký nhớ lại cảnh năm 1949:



Trên đoạn đường này ngày xưa (1949-1954) là một cánh đồng sâu, cấy lúa chiêm. Lúc mới tản cư về đây dân làng muốn đi chợ Tứ Trụ phải lội qua cánh đồng này. Mùa đông và xuân nước bùn ngập đến gối, mà hè và thu nước đến lưng đùi người lớn, nhưng với trẻ con 12 tuổi hay nhỏ hơn như chúng tôi thì nước ngập tới gần mông. Quãng đường ngập nước quanh năm này dài khoảng 100, nên khi lội hết quãng đường người ta phải ngừng lại bắt mấy con đỉa bám vào chân, đùi quăng đi.

Bên kia cánh đồng sâu, ngay đầu làng, là một chòm đa khổng lồ gồm nhiều cây họp lại. Qua đây lúc ban ngày thấy tôi tối vì quá nhiều lá cây che phủ. Bên trong chòm đa toàn là cây dại mọc quá đầu, rậm rạp chi chit. Đây là ổ của các loài rắn độc: cạp nong, cạp nia, hổ lửa, mai gầm…có con to như cánh tay người lớn dài trên 2 thước. Từ khi mới tới, chúng tôi nghe dân làng nói trong chòm đa có con rắn chúa  to lắm, đầu có mào đỏ. Ngay giữa bụi đa có một bàn thờ bằng đá xanh, thấp thoáng sau các tàn lá cây dại, nhìn thâm u quái đản. Đi ban ngày qua đây một mình cũng tởn xương sống, nên vài ba người hay rủ nhau đi qua một lượt. Ghê rợn hơn nữa vào khoảng năm 1952, người ta phát hiện xác chết một phụ nữ trên bàn thờ đá ma quái kia.

Năm tôi lên 9 tuổi, cả làng chỉ mình tôi đi học, sau khi chăn trâu bò trên rừng về. Lúc trời mới chạng vạng, tôi phải lội qua cánh đồng đến trường. Đi bộ khoảng 6 cây số thì đến trường ở Tứ Trụ. Lớp học tan lúc nửa đêm, tôi lại lủi thủi đi về với một cái đèn chai, một cây gậy làm vũ khí, vượt qua các bãi tha ma lạnh lẽo, những con đường bờ ruộng trơn trợt, lội qua cánh đồng sâu bùn lầy, và cái khủng khiếp nhất qua chòm đa kinh dị để đến nhà lúc gần 1 giờ sáng.

Với các kỷ niệm ấy làm sao tôi quên được?

Đầu năm 1952, bố tôi về thăm gia đình; ông qui tụ dân làng làm cây cầu tre vượt cánh đồng sâu. Từ đó việc học của tôi bớt phần cực nhọc nhưng tăng thêm sợ hãi khi người phụ chết ở chòm đa. Dứoi ánh đèn chập chờn tôi có cảm tưởng các rễ đa lòng thòng kia đang rung động cuốn lấy thân tôi. Mỗi lần đi qua đây lúc quá nửa đêm, tóc gáy tôi dựng đứng lúc có tiếng động lạ vang lên từ bàn thờ, phần sợ rắn chúa phần sợ quỷ ma.  Nhưng việc học là quan trọng, tôi phải cắn răng vượt qua.
Một lần ông cố Lư, người làm ruộng với chúng tôi nói rằng ông nghe tiếng oan hồn của người phụ nữ than khóc lúc nửa đêm. Tôi hỏi ông ma sợ cái gì? Ông trả lời nước tiểu.
Một đêm, tôi đi học về, khi đến đầu cầu tre tôi thấy một vài ngọn đuốc bập bùng ở đầu làng. Tôi biết đó là đội thanh niên bảo vệ mùa màng đang đi về chòm đa. Tôi mừng thầm là khi đến chòm đa tôi sẽ gặp được họ.
Khi đến nửa cầu, tôi thấy họ bắt đầu vào chòm đa ma quái. Tiếng chân tôi bước trên cầu làm mấy người đó dừng chân lại nghe ngóng.
Tôi nghe một tiếng quát:
- Ai đó?
Tôi định trả lời, nhưng không được vì tôi đã bị khản cổ từ vài ngày nay, sau một trận ho dữ dội.
Tiếng quát có vẻ khẩn trương hơn:
- Ai làm gì đó! Nói đi không tao bắn!
Tôi sợ mấy anh đó bắn thật nên cố sức trả lời với một giọng khàn khàn khó nghe:
- À hà! Tôi đây! Tôi là...
Đột nhiên tôi nghe cả đám cùng hét:
- Ma! Ma! Anh em ơi!
Tất cả đám bảo vệ mùa màng đó xách đóm, bỏ chạy mất tang, và kết quả tôi lại đi vào chòm đa một mình trong không khí đầy ma quái. Tôi thầm nghĩ: "Chẳng biết họ nghe tiếng mình hay họ thấy ma thật?" Những lời nói của ông cố Lư làm tôi thấy ớn lạnh.
Tôi nhìn về phía bàn thờ để xem có thấy ai nằm đó không? Nhưng ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu không đủ để nhìn tới đó. Một cơn gió thổi tới làm các rễ cây lòng thòng của cây đa đu dưa qua lại và các cành cây mầu trắng nhìn như những bộ xương người khổng lồ, hay những con trăn trong chuyện phiêu lưu.
Trong không khí lặng lẽ đó, đột nhiên tôi nghe một tiếng động lạ. Tôi đoán: "Chắc ma sắp về thật, hay là tự kỷ ám thị?" Tôi cố sức nhìn vào cái bàn thờ lần nữa xem có thấy hiện tượng lạ nào không. Nhưng tối quá, nên tôi chẳng thấy gì hết.
Tôi hét:
- Ai đó! Ai làm gì đó!
Tôi cúi xuống nhặt một cục đất, chuẩn bị đối phó.
Tôi lại hét:
- Ai làm gì trong đó!
Chỉ có tiếng lá xào xạc vì gió thổi trả lời câu hỏi của tôi. Tôi thầm nghĩ: "Như vậy là mình tự kỷ ám thị." Tôi cất bước về phía trước, nhưng bất chợt tiếng động lạ lại vang lên, và lần này chắc chắn một trăm phần trăm là có tiếng động thật.
Tôi hét một tiếng thật lớn:
- Ai đó!
Đồng thời ném cục đất về chỗ có tiếng động. Một tiếng vụt vang lên và tiếp theo tiếng chim vỗ cánh. Thì ra đó là một con cú đi săn mồi khuya. Tuy nhiên, hiện tượng đó làm tôi mất vía. Tôi lập tức nghĩ lại cách đuổi ma mà ông cố Lư đã chỉ. Tôi nhủ thầm: "Mình phải lấy nước tiểu đuổi ma mới được, nhưng muốn có nước tiểu trong thời gian dài thì vừa đi vừa tè là hay nhất."
Nghĩ là làm, tôi lập tức vừa đi vừa tè, miệng thì hát nghêu ngao, tay cầm gậy đập túi bụi vào hai bên đường. Tôi cũng không quên quật gậy lại sau lưng, vì sợ "ai đó" đi sau lưng mình.