Sunday, October 5, 2014

Đại Việt Thắng Nguyên Mông- Bài 67

(tt)

Thế trận khởi động, các bè nơi phục kích tiến ra. Khi thuyền giặc đi qua, các bè được chống giữa sông, giăng ngang. Các thủy thủ đoàn lính hỏa công này ở phía trên các thuyền giặc đến hơn 100 trượng (nửa cây số), nên làm việc không nguy hiểm. Lính ta nối ba, bốn bè với nhau, cách nhau độ một bộ đến ba bộ (1,5 m – 3 m). Các sợi dây nối này không theo lối thường mà cột ngầm dưới nước để tránh lửa cháy đứt dây. Sau đó họ đốt lửa, và đợi lửa bén thật sự thì họ sang đò nhỏ cột bên cạnh. Các bè lửa lù lù xuôi dòng. Vì rơm bên dưới được cột chặt nên sự cháy chưa bùng. Khi các dây cột đứt thì sự cháy bộc phát mạnh hơn.

Các lính trên đò vẫn chống sào chờ đợi. Lớp bè kế tiếp của một con sông nhỏ khác ra là tà trôi xuống. Khi ngang chỗ ấy các lính thủy lại làm công việc tương tự lớp vừa rồi, Họ nối bè với nhau rồi sang thuyền chờ đợt bè khác sắp tới. Số lính mỗi lúc tích tụ nơi đây càng đông, nên công việc nhanh hơn. Giờ này, trên mặt sông Bạch Đằng có cả ngàn cái bè lửa, nóng bỏng vô tình lãng đãng, lan man trôi xuống dưới.

Cờ hiệu trên núi Tràng Kênh lại đổi màu, toán thủy binh phía trên đã chiến đấu từ sáng đến giờ liền lập tức chèo thuyền vào bờ.

Quân Nguyên thấy lính ta đột nhiên chèo thuyền đi thì chúng nghĩ ta đã thua. Nhưng phía xa xa bên trên, chúng thấy khói rồi lửa. Lửa lúc đầu thì nhỏ và càng đến gần thì cháy càng mạnh. Lúc này, chúng kinh hãi khủng khiếp. Chèo thuyền đi đâu? Phía trên thì lửa, bên dưới thì cả đám thuyển đang nửa nổi, nửa chìm la hét vang trời.

Chỉ huy thuyền ra lệnh lấy giáo chống các bè lửa trôi sang bên cạnh. Nhưng các bè này nặng quá! Đã thế chống được bè này thì bè kia lại ập vào hông phía khác. Rút cục hai bên lửa cháy cao vời vợi, làm buồm chúng cháy rụi. Đây chẳng qua là vì dây cột ngầm, bè này kéo bè kia.

Một số nhảy xuống biển định cắt dây nối nhưng tìm mãi mà chẳng thấy dây. Vì dây bây giờ đã nằm dưới gầm thuyền khổng lồ của chúng.

Đến phút này, các cây, tre, luồng mặt trên bè đã thoát hết hơi nước, nên trở thành khô và bốc cháy. Trong mỗi ống tre, luồng khí bị giãn nở tối đa, nên phát nổ ầm ầm, như sét đánh, tung các mảng rơm củi đang cháy lên trời. Nhiều mảng lửa rơi xuống thuyền quân Nguyên làm chúng bị phỏng.

Đám bè này chưa trôi đi hết thuyền thì đợt bè kế tiếp lại đến. Các thuyền gỗ cũng bắt đầu bén lửa. Tàn một phần ba cây nhang, các bè lửa trôi xuống đền bãi cọc. Đám thuyền này đang chết đuối nay lại chết cháy.

Các lớp thuyền phía sau rút sào cho thuyền trôi nhưng chúng đụng đám thuyền mắc kẹt, trên bãi cọc, nên đùn cục. Mà làm sao chúng lên bờ nổi? Nhảy xuống sông thì cung nỏ hai bên bờ bắn ra như mưa.

Thật nực cười cho giặc xâm lăng. Chúng ở giữa sông nước mà chết vì lửa.

Sau cả canh giờ thì đám bè cặp bên các sông đã tới nơi. Lính ta vẫn tiếp tục vở kịch đốt lửa nhìn quân Nguyên đền nợ máu.

Lúc cả đoàn thuyền quân Nguyên Mông chìm trong biển lửa, thì đội quân này mới nhổ sào xuôi dòng. Họ không cần đến gần mà vừa tầm bắn cung, phóng lao.

Sào cắm thuyền bây giờ cũng cháy rụi, nên các thuyền lửa này tự động trôi xuống bãi cọc, càng làm hạm đội chu sư của Ô Mã Nhi thêm rối loạn.

Đám lính Nguyên trên thuyền bây giờ, bỗng đâu thấy tên, giáo xuyên qua thân hình chúng mà địch quân bên kia màn lửa nên chẳng thấy được.

Thấy hết các lựa chọn, họ Ô ra lệnh cho thuyền đâm vào hai bên bờ, đồng thời cho đội cảm tử mở đường máu xin đại quân Thóat Hoan tiếp viện. Số sáu vạn quân của y bây giờ chỉ còn bốn chia làm 2, nên mỗi bên có 20000 quân. Hai đạo này bị lép vế so với quân Đại Việt do hai tướng Tần Quốc Tảng và Trần Quốc Hiện là 60000 chưa kể 35000 hỗ trợ do chính Hưng Đạo Vương chỉ huy. Tuy nhiên, dưới con mắt của các tướng Mông thì lại khác. Chúng thấy trên hai bờ sông, mỗi bên có khoảng 4 hay 5 ngàn binh trải dài trên bãi dài khoảng trên 2 dặm (1 km). Theo Hưng Đạo Vương thì số quân này vừa đù để đánh địch. Nếu đông hơn chỉ làm khó khăn khi tấn công cũng như khi rút lui chiến thuật.

Một điểm mà Ô Mã Nhi không biết là toán cảm tử cầu viện của y bị quân Trần Nhật Duật tiêu diệt ở Đông Triều.

Bây giờ lại quay sang 40000 quân Nguyên đổ bộ lên bờ. Vì thuyền chở chúng quá lớn, không thể vào sát bờ nên lính phải nhảy từ thuyền xuống sông khi đáy thuyền chạm đất. Lúc ấy sàn thuyền cách mặt nước tới hơn 1 trượng (4 m), làm nhiều lính bị thương.

Lính Việt trên hai bãi chống cự mãnh liệt. Tuy nhiên, lính Nguyên Mông to hơn, khỏe hơn đánh giỏi hơn, nên cuối cùng chúng vẫn tiến lên bờ sông được. Vùng này bờ sông thoai thoải và rộng làm chúng có thể lên đây rất đông cùng một lúc. Vì vậy 4 ngàn quân Việt yếu thế nên rút chạy vào rừng cây thưa bên bờ sông nước mặn. Lúc đám lính  Nguyên đầu tiên chạy lên bờ khoảng hơn 40 trượng (120 m) thì thấy một bãi chông dày đặc, khổng lồ bao quanh, cắm ngược về hướng chúng. Các chông này không lớn lắm chỉ khoảng cán dao cao ngang bắp vế. Giữa các bãi chông là con đường rộng độ 1 trượng, trống trơn mà quân Việt đã theo các con đường ấy rút lui. Lính Nguyên lập tức theo các con đường này chạy, truy kích và cũng là con đường sống của chúng.

Thật ra bãi chông do Hưng Đạo Vương cho cắm theo một trận thế gồm nhiều khung. Một khung rộng 5 trượng sâu 100 trượng, cách nhau bởi một lối rộng 1 trượng. Bên ngoài bãi chông, chỗ luôn luôn khô vì nước không lên đến, ngài dặn binh sĩ mang cỏ khô, rơm khô tẩm dầu trải ra khắp bãi. Như vậy trên toàn bãi dài trên 2 dặm có tới 50 lối để quân ta rút. Lính ta lúc đánh nhau thì ra phía trước bãi này mà dùng nỏ để bắn. Lúc giặc tràn vào cố đánh thật hăng dụ địch lên thật nhiều.

Quân Nguyên theo lối quân ta rút đuổi theo cả mấy trăm quân vào lối. Vào đến nơi và khi quân Việt mất hút, chúng mới nhận ra trước mặt là một dốc gỗ rộng hơn lối ngăn bãi chông, và phía gần cuối dốc có một vật kỳ lạ với các sợi dây chão cuốn quanh. Đột nhiên, chúng nghe lách cách, rồi trong cánh rừng thưa đối diện, một chiếc khổng lồ bề ngang gần bằng lối đi xe mà phía trước là một bàn chông tạo ra bởi các ngọn giáo hay tre, luồng vát nhọn hoắt, tự động chạy ra đâm sầm vào đám lính chạy đầu đoàn. Đám này chưa ra hết lối của bải chông, nên chạy lui không được vì đồng bọn phía sau đang xông lên, mà chạy tới thì chịu bị giáo đâm.

Xe này quá nhanh và quá mạnh. Khi đâm hết lớp giặc ở hàng đầu, xe tiếp tục chạy qua xác chết đâm lớp thứ hai...Cuối cùng hết trớn xe bất thần ngừng lại và các tung ra cục các cục đá nặng cả tạ (trên 60 kg) làm chết và bị thương một số khác.


Lúc này, nỏ Đại Việt bắn tên ra như mưa.

Chúng không thể rút ra xa vì đám lính đàng sau cứ ùn tới.

Hàng chông đầu tiên nằm trong tầm của các nỏ mạnh, nên chúng không thể nhổ các chông đi. Khi toán tiên phong Nguyên Mông bị kẹp tại hàng chông, lính ta mới tiến ra gần hàng chông đề bắn tên lửa, phóng lao vào các lớp giặc phía sau. Một số lính trúng tên, một số khác tên bị bắn hụt, nhưng rơi xuống đám cỏ rơm tẩm dầu, bốc cháy ngùn ngụt. Bây giờ đám lính này bị phỏng nên rối loạn vô cùng.

Tiến thối lưỡng nan, quân Nguyên được lệnh dùng giáo đẩy xe ngược lại để tìm đường sống. Nhưng các xe này quá nặng và bánh xe đã bị khóa cứng không quay ngược chiều được. Rốt cục cả đám bị chông vây ba phía.

Nếu nước thủy triều lên thì cả đám 40000 quân này sẽ làm mồi cho cá.

Cánh quân Đại Việt do Trần Khánh Dư ở trên tràn xuống đánh vào ngang sườn. Chúng bị 2 mặt tấn công, thây chất đầy bãi.

Khi nước triều dừng lại, tướng Đỗ Hoành cho quân cánh hạ của ta quay ngược lại tấn công các thuyền đang mắc cạn.

Phàn Tiếp là tướng chỉ huy cánh tiên phong nên bị kẹt trong đám thuyền đầu tiên bị cọc đâm chìm. Y rất vất vả chống đỡ khi thuyền y nghiêng ngả. Khi đang lúng túng thì bị quân ta đánh văng xuống sông. Tướng Đỗ Hành cho lính lấy cây thương có móc, móc y lên trói lại.

Nhờ thuyền nhỏ nên thủy binh ta len lỏi qua các cọc, thuyền chìm, thuyền cháy trong lúc quân Mông đang chống với lửa và các binh cánh thượng. Rút cục binh ta đánh úp sau lưng mà chúng không ngờ. Ô mã nhi thấy quân mình đổ bộ lên bờ cũng không xong, nên bồn chồn lo lắng. Trên thuyền y nay chỉ còn hơn mươi lính hộ vệ, khỏe mạnh. Số còn lại đã bị thương bị bỏng, hay văng xuống sông. Bỗng đâu, bên mạn thuyền nhô lên một đám lính Đại Việt cầm toàn đoản đao, phóng lên thuyền, đánh sáp lá cà.

Khi ấy lính Mông tay còn cầm cung, thương để lo chống với lính phía kia. Các loaị vũ khí này bị bất lơi lúc cận chiến. Một chút sau, lính Đại Việt lên thuyền càng lúc càng đông. Một số binh sĩ hắn lại bị loại khỏi vòng chiến. Y đang lúng túng thì bị một cái móc giật xuống, mà sàn thuyền nghiêng nghiêng nên ngã bổ nhào. Năm sáu lính ta chồm tới ôm cứng, rồi trói y lại. Số lính Nguyên còn lại, thấy vậy xin hàng.

Nước lại bắt đầu lớn khi ác vàng ngả bóng.

Tích Lê Cơ đang chiến đấu ở hàng hậu vệ, bỗng thấy đòan thuyền Đại Việt tiến lên. Trong một trong các chiếc này thấy chủ tướng y bị cột như một đòn bánh tét, y đành buông đao chịu trói.

Thiên phu trưởng Phạm Nhan thì hăng máu hơn, đánh chém quân ta tơi bời. Mãi đến khi quân ta lấy câu liêm giựt y té xuống sông và bị bắt mới xong. Khi lên thuyền ta y còn đạp một lính ta văng xuống sông. Thấy vậy lính ta trói y từ đầu đến chân. Sau đó gánh y như gánh heo lên trình cho Hưng Đạo Vương.

Lúc tụ quân kiểm điểm chiến công, người lính thoát chết khi bị bắt báo cáo cho Hưng Đạo Vương biết về việc tàn ác của tên này lúc tra tấn năm lính ta ở vàm sông Kinh Môn. Ngài liền ra lệnh chém đầu để tế oan hồn tử sĩ trong cuộc chiến.
***
Bây giờ ta tìm hiểu chuyện cái xe bàn chông.

Trước hết, Hưng Đạo Vương cho làm một thân xe đáy thật dày.

Ngài cho lấy sắt rèn thành các mũi chông nhọn to bằng cán đao lớn, dài trên 1 xích (khoảng 40 cm). Cắm các chông này ra ở trước. Hai bên hông, ngay phía sau trục bánh xe có một khối gỗ vuông làm cục chặn chốt và một thỏi sắt to như cán cuốc (xem hình vẽ) làm trục quay của chốt (trục chốt).
 
Chốt cũng là một thỏi sắt đươc rèn, uốn có đường kính lớn hơn trục chốt. Thỏi này dài hơn khoảng cách từ trục chốt tới cục chặn.

Bên dưới gầm xe có một hệ thống ròng rọc đặt ngay chính giữa để dây chão kéo xe chạy qua.
 
 





 
Làm bánh xe, có các cọc sắt phân đều trên một hình tròn đồng tâm với bánh xe.

Làm giáo cán thật dài và lấy tre cứng rồi vát nhọn đầu.

Lấy giáo, tre nhọn đầu cột lên xe ngang, dọc và ráp các chốt chặn cùng bánh xe như hình dưới đây:






Hình xe chông sau khi ráp.
Khi đã xong việc chất giáo, tre chông, lấy líp tre đan bao quanh xe; líp tre phía trước thấp hơn các phía khác. Sau đó, các binh lính được lênh bỏ thật nhiều đá lên xe.
 

 
Hình xe chông  & líp tre đan
 
Bên trên cùng của lớp giáo, tre cũng để một líp tre phủ và chất 1 lớp đá.  Đá trên cùng này to như một cái cối xay bột.
Tại các lối rút trên bãi, ngài cho làm các dốc gỗ chạy vào rừng.
Gần cuối dốc là các ròng rọc thật vững. Phần chính giữa các ròng rọc có một ống luồng thật to bên ngoài trục. Bộ phận này giúp nó quay mà giảm đi sự ma sát.
Để tránh việc xe chạy không kiểm soát, ngài cho đặt phía sau xe một trục ròng rọc nữa. Cả hai trục ròng rọc phải thật ngay chính giữa lối của bãi chông. Cái ròng rọc thứ hai sẽ làm xe chạy thẳng dù là người ngựa chạy không đúng lúc kéo xe xuống dốc.
 Ròng rọc
 
Khi xe vừa qua ròng rọc 1, toán kéo xe buông dây. Vì gầm xe cao hơn ròng rọc này, nên xe sẽ chạy qua và tiếp tục đâm xuống cuối dốc và chạy cả trên cát.
Cả hệ thống xe cùng dây chão trên dốc của bãi chông.
Một giây chão nối vào xe chông, đi vòng quanh ròng rọc, rồi quay ngược vào rừng để ngựa và người kéo. Lúc đầu ngài định dùng voi, nhưng khi qua sông Hương Hóa voi bị sa lầy chết, nên ngài phải thay bằng ngựa.
Các chiếc xe chông này dấu trong rừng ngụy trang với cành lá.
Khi giặc chạy gần đến cuối dốc, ngựa và người kéo đầu kia của dây chão làm xe đâm sầm xuống dốc. Sức ngựa, người cùng độ dốc làm xe chạy càng lúc càng nhanh.
Vì xe chạy xuống dốc vốn đã có ưu điểm vể sức hút trái đất, lại thêm sức kéo của cả mấy chục người, ngựa nên vận tốc rất lẹ. Các xe này có thể chạy qua xác giặc lớp đầu, đâm lớp giặc kế tiếp. Khi xe bất thần ngừng lại, các cục đá để trên cùng theo trớn phóng ra làm tổn thương giặc thêm.
Với cách giết giặc kiểu này lính và ngựa ta không tiếp xúc trực tiếp với địch quân nên không bị nguy hiểm.
Lính Nguyên Mông cố sức đẩy xe ngược lại như không ẩổi vì bánh xe bị khóa. Sự khóa bánh xe này là do một bộ phận cơ khí đơn giản và được giải thích bởi hình vẽ dưới đây
 

Hình trên cho ta thấy chốt nằm trên chốt cản, trong khi cọc sắt A của bánh xe nằm bên dưới. Bây giờ bánh xe quay theo chiều mũi tên để xe tiến tới. Cọc sắt A sẽ nâng chốt lên như hình dưới đây.
Khi cọc A quay qua chốt, chốt tự động rơi xuống và cọc B sẽ làm nhiệm vụ của cọc A. Và cứ tiếp tục nên xe chuyển động không bị trắc trở.
Nếu đẩy xe ngược lại ngay khi cọc B còn bên dưới chốt. Cọc A sẽ đè chốt xuống, đồng thời chốt cản giữ không cho chốt xuống nữa nên xe chạy không được.
Kết quả theo sử: Quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền, tướng Đỗ Hành bắt được tướng Nguyên là Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ dâng lên Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng hoàng đã vui vẻ hậu đãi những viên bại tướng này. Khoảng hơn 4 vạn tướng sĩ Nguyên Mông đã bị loại ra khỏi vòng chiến. Tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị bắt sống, rồi bị bệnh chết, trong khi một bại tướng khác là Phạm Nhan thì đã bị Trần Quốc Tuấn cho trảm quyết. Theo Nguyên sử thì Phàn Tiếp rơi xuống sông, bị lính ta lấy móc câu lên. Cánh thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt.
Chiến thuật và như đã viết trên chiến thuật còn được áp dụng cho cả cá nhân, tôi có một câu chuyện mà chính bản thân đã áp dụng. Câu chuyện này sẽ đăng vào bài Những Ngày Không Mặt Trời.

Saturday, October 4, 2014

Dân tộc thiểu số ở Miền Bắc- Trung- Bài III


IV. Đi “mò đêm” nhà sơn nữ người Thái

Căn nhà sàn của cô gái Thái vẫn còn bật đèn, bố mẹ cô chưa đi ngủ, A Lý tiến vào khẽ gõ lên cửa một lát thì cánh cửa mở ra… Sau đây là lời kể của một phóng viên ngoài Bắc…
Trong chuyến công tác ở xã Suối Bàng, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, sau khi tôi đã xong công việc thì cũng là lúc trời bắt đầu xâm xẩm tối. Bởi vậy tôi đành đến xin ngủ nhờ tại nhà của một người dân trong bản. May mắn là dân chúng trong làng Pưa Lai này đều là những người tốt bụng, hiếu khách. Thế nên, tôi được ngủ nhờ ở nhà anh Đinh Văn Thắng và chị Lường Thị Giang, họ là đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau chưa đầy hai năm. 
Bữa cơm thết đãi khách có thịt trâu và rượu ngô thơm nồng, đối với tôi quả thật là ăn mày vớ được xôi gấc, vì sau một ngày lăn lội đường đồi, đường núi, lại chẳng có quán xá nào để tạt vào ăn lót dạ, đến giờ đã sắp đói lả, ấy vậy mà vợ chồng anh Thắng vẫn ái ngại, sợ bữa ăn đạm bạc quá, không phải lễ với khách. 
Ngồi nhâm nhi chén rượu ngô, tôi hỏi anh Thắng vùng này có phong tục gì đặc biệt. Anh Thắng cười, hỏi lại: “Anh đã nghe nói tới tục “đi mò” chưa?”
Thật tình là khi nghe anh Thắng nói thế, tôi ngỡ anh nói mò ốc, mò cua gì đó. Có lẽ đoán được sự hiểu lầm của tôi, anh cười, bảo: “Đấy là một tập tục đã có từ lâu đời của người Thái Đen ở bản này. “Đi mò” là một kiểu tìm kiếm bạn tình, cũng giống như người Thái Trắng có tập tục “chọc sàn”, người Dao có tục “cạy cửa ngủ thăm”, người Mông có tục “đánh mông” chắc anh đã nghe qua…”.


(Chú thích: người Thái còn gọi là người Tày. Thái Đen hay Tày Khao: chuyên mặc đồ đen. Thái Trắng hay Tày Đăm: chuyên mặc đồ trắng. Họ chiếm tới 55% dân số tỉnh Sơn La và có liên hệ về chủng tộc với người Thái Lan.– ĐD).
 
[Lời bàn của VHKT: Như phần giới thiệu tôi đã viết, người dân tộc thiểu số ở Sơn La, Lai Châu đa số là người chạy loạn trốn Mông Cổ năm 1254. Năm ấy, Hốt Tất Liệt và tướng Lương Ngôn Hợp Thai đánh chiếm Đại Lý. Các bộ lạc người Thái nơi đây, đa số chạy xuống Thái Lan còn một số sang Lào Và Đại Việt.]
 
Anh cho biết, con trai ở bản Pưa Lai này cứ đến khoảng 15-16 tuổi là bắt đầu biết “đi mò” rồi, đứa nào không chịu khó đi mò thì chỉ có nước ế vợ. Họ có thể “đi mò” theo kiểu đánh lẻ hoặc từng nhóm. Nếu đi theo nhóm thì cứ việc đàng hoàng đến nhà cô gái mà mình ưa thích rồi gõ cửa, bố mẹ cô gái sẽ ra mở, mời vào nhà uống nước và trò chuyện. Vì “đi mò” là một phong tục nên dù có đến muộn bố mẹ cô gái cũng chẳng cảm thấy phiền hà. Sau khi đã chuyện trò, rào đón với “phụ huynh” dăm ba câu, đợi họ đi ngủ, cả nhóm sẽ kéo nhau về, để lại một anh chàng có tình ý với cô gái để hai người bắt đầu giai đoạn “tìm hiểu”. 
Đối với những chàng trai thích “một mình xung trận” thì phải hẹn với cô gái trước. Đợi khi cả nhà đã đi ngủ, chàng trai đến gõ nhẹ vào cửa hoặc vào vách nơi cô gái ngủ làm hiệu, cô gái sẽ biết ý ra mở để chàng trai vào.
Ngược lại, đã thích một cô nào đấy nhưng nếu không hẹn trước, tối khuya chàng trai cứ tìm đến, lẳng lặng dùng dao lách vào khe cửa, bẩy cái chốt lên để vào nhà, đến buồng cô gái. May mắn được đồng ý, cô gái sẽ im lặng và cho vào giường. Còn nếu không được sự đồng ý, chàng trai vẫn cố ý chui vào giường để “tìm hiểu” rất dễ bị cô gái hô hoán cho bố mẹ đuổi về. Tuy nhiên, ở bản này chưa bao giờ xảy ra chuyện trai bản bị “muối mặt” như vậy. 
Những chàng trai khi đã tìm được đối tượng để gửi gắm tình cảm, sau những lần “đi mò” rồi được cô gái ưng thuận cho ngủ lại thì sau đó sẽ về thưa chuyện và nhờ bố mẹ đến hỏi cưới. Tuy nhiên, trước khi lấy vợ, chàng trai phải đến nhà cô gái làm giúp một thời gian, nhanh thì ba tháng, chậm thì một năm. Trong lễ cưới, nhà trai phải là người lo hết mọi chi phí của đám cưới, từ của hồi môn cho đến việc cỗ bàn thết đãi khách bên nhà gái.
Kể xong anh Thắng nhìn sang vợ, chị Lường Thị Giang, và cười khì khì: “Nói đâu xa, cách đây hai năm tối nào tôi cũng cùng đám thanh niên đi mò đêm suốt ở cái bản Pưa Lai này, thậm chí là sang cả bản bên cạnh nữa. Cuối cùng là “mò” được cô ấy đấy”.
Thấy tôi háo hức muốn đi cho biết, anh Thắng giục vợ dẹp bát đũa, cùng tôi ra ngồi uống nước trà rồi bảo: “Cứ uống nước xong đi là vừa. Tí nữa mình gọi mấy thằng em ở bản, tối nào chúng nó cũng đi, cho cậu đi cùng luôn thể”.  
Tôi đi “mò” 
Tối hôm ấy, người em họ của anh Thắng tên là A Lý khoảng chừng 16 tuổi cùng mấy đứa bạn của nó cũng cỡ tuổi đó đến dẫn tôi đi. Đường đèo đầu mùa đông, lạnh giá. Đang đi, A Lý khẽ bảo tôi: “Tụi em dẫn anh vào nhà con bé tên Luyến xinh lắm. Nó là “hoa chưa có chủ” vì mới cỡ 16 tuổi, đẹp nhất bản. Anh xem nếu nó đồng ý thì tụi em để lại anh ở đấy, tụi em có chỗ khác. Nó mới lớn, tán nó hơi khó, tụi em không thích”. 
Căn nhà sàn của gia đình cô gái tên Luyến vẫn còn sáng ánh đèn, bố mẹ cô chưa đi ngủ. A Lý khẽ gõ lên cửa, một lát thì cánh cửa mở, cả bọn kéo tôi vào. Chúng tôi ngồi uống trà với bố mẹ của Luyến, còn cô thì ngồi e ấp trên giường của mình ở góc nhà sàn.
Thấy tôi lạ mặt, bố của Luyến hỏi chuyện. Tôi không dám nói thật mình là người Kinh ở dưới xuôi lên mà trả lời rằng là bà con của anh Thắng, hôm nay đến đây được mấy cậu em dẫn đi chơi. 
Sau vài ba câu chuyện, bố mẹ Luyến biết ý, đi nghỉ và bảo chúng tôi cứ ngồi chơi. Tôi đang e ngại vì chưa hiểu tình thế ra sao, không biết nên về hay nên ở thì A Lý rủ rỉ vào tai tôi: “Con bé Luyến có vẻ “kết” anh rồi đấy. Từ nãy đến giờ nó cứ nhìn anh chằm chặp”. Nghe vậy, tôi để ý thì thấy đôi mắt tròn xoe, đen lay láy của Luyến đang nhìn tôi với gò má ửng hồng, không hiểu vì thời tiết lạnh hay vì bản năng riêng của con gái người dân tộc. Thấy tôi nhìn, cô bé mỉm cười quay đi. Thấy vậy, cả bọn cười, vỗ nhẹ vào vai tôi ra chiều chúc mừng rồi kéo nhau đi. A Lý bảo tôi: “Tụi em cũng loăng quăng ở gần đây thôi. Nếu có gì không ổn, anh muốn về sớm thì cứ ra bên ngoài, ho lên mấy tiếng là em biết, sẽ dẫn anh về”.
Đâm lao thì phải theo lao, đợi Lý đi xong, tôi mạnh dạn đến bên chiếc giường lót rơm làm nệm của Luyến, ngồi xuống cạnh giường. Bất ngờ, Luyến thả mùng xuống, cài chung quanh rồi kéo tôi vào trong mùng, ôm chầm lấy tôi, áp mặt vào ngực tôi và cười khúc khích: “Hồi chiều em đã gặp anh rồi”. Hỏi ra mới biết, lúc chiều tôi đi loanh quanh trong bản chụp hình, thấy một đám sơn nữ đang địu ngô trên lưng từ đằng xa đi tới, tôi giơ máy ảnh ra chụp vài bức, té ra trong đám có Luyến mà tôi không biết. 
Cũng nhờ “quen trước” như vậy nên tôi với Luyến nằm bên cạnh nhau, chuyện trò với nhau cởi mở hơn. Tôi thành thật kể cho Luyến nghe rằng mình là người Kinh ở dưới xuôi lên, Luyến cười: “Em biết rồi. Anh là nhà báo”. Tôi rất ngạc nhiên: “Sao em biết?”. “Tại vì anh có máy ảnh to loại chuyên nghiệp. Với lại nhà báo thì anh mới đi một mình chứ nếu là khách du lịch họ đi cả đoàn”. “Thế anh là người lạ, em không sợ à?”. “Không. Tối nào các trai bản cũng đến nhà em, có vài người quen mặt nhưng cũng có người lạ mặt, em không sợ đâu. Với lại con gái thì phải để người ta đến mới lấy được chồng, tục lệ ở đây là như vậy”.
Câu nói của Luyến khiến tôi cảm thấy thương nàng. Luyến có cảm tình với tôi. Tôi biết rõ điều đó. Các cô sơn nữ thường thích những chàng trai Kinh. Cũng có người đã ở lại đây, ăn đời ở kiếp với nhau, sống cuộc sống bình dị có thể coi là hạnh phúc. Nhưng tôi thì không, tôi sẽ phải trở về Hà Nội. Người ta bảo “ngủ thăm”, “mò đêm”, hoặc “chọc sàn” thì không được phép làm điều gì không trong sạch trước khi cô gái đồng ý và sẽ phải tính đến chuyện lâu dài. Riêng tôi thì khác, tôi là chàng trai người Kinh, tôi biết nếu tôi tiến tới, cô bé sẽ phá bỏ tục lệ, sẵn sàng chấp nhận nhưng tôi không thể làm như thế được… 
Đợi cho Luyến ngủ yên, tôi rón rén trở dậy, cố gắng không gây tiếng động kẻo làm Luyến thức giấc. Trước khi chui ra khỏi mùng, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn nhỏ đặt trên chiếc giá ở giữa nhà, tôi thấy gương mặt cô bé trông thật hiền dịu và thật dễ thương, đôi môi hé mở trong giấc ngủ như một đóa hoa rừng. Tôi đặt nhẹ lên má nàng một chiếc hôn từ biệt. Chợt, tôi giật mình: trên hai gò má nàng có hai dòng nước mắt chảy dài nhưng Luyến vẫn giả bộ ngủ. Các cô sơn nữ là như thế, rất quý trai Kinh nhưng cũng hiểu khó có chuyện lâu dài nên đành im lặng chia tay…
Gái Mường tắm trên sông Mã.
 
Thượng Du Trung Việt. 
Tại cao nguyên Trung Việt, đồng bào thượng có cuộc sống rất thiên nhiên cho đến thời 1970 vân còn. Thời gian này các nhà báo Tây Phương hay săn ảnh các cô gái Tây Nguyên ngực trần.
Thanh niên kinh len đấy tìm tới các suối, song thấy các cô tắm khỏa thân tha hồ mà ngắm. Nhưng để các cô tư nhiên thì các cậu phải đeo kính đen. Các cô gái thượng sẽ cho là các anh này không thấy gì qua cặp mắt kính đen hay là các cô không mưốn thấy mắt thật của mình thì không rõ.
Bây giờ mời các bạn đọc tiếp bài viết mà tôi nhận được.
VHKT
Ảnh thiếu nữ Tây Nguyên trên tạp chi Life

Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Còn về cuối năm, mùa lạnh thì họ choàng thêm tấm mền cũ. Trang phục khi đi hội của người dân thường được trang trí hoa văn nhiều màu sắc cả nam, nữ đều đeo vòng bạc. Giản đơn trong cách ăn mặt nên cũng thuận tiện khi xong buổi làm việc trên rẫy, trên rừng: các thiếu nữ bản làng cứ thoăng thoắt bước xuống suối nô đùa với dòng nước mát mà không cần cởi bỏ thứ gì ngoại trừ nếu muốn không ướt váy. Nếu muốn giặt váy áo thì sơn nữ sẽ cởi bỏ nó giặt giũ ra khi thân mình đầy đặn đắm trong dòng nước tinh khiết và mát lạnh giữa núi rừng Tây nguyên. 
Bây giờ người ta phải dàn dựng... Bây giờ thì người viết báo muốn tìm nguồn tin làm phóng sự thì tìm đỏ mắt, nhiếp ảnh gia muốn sáng tạo ảnh nghệ thuật phải tìm chốn thuê người làm mẫu cởi trần tắm suối như ngày xưa để có những tác phẩm gọi là có hồn... Nhưng cái hồn ấy là sao có được sự tinh khôi thuần khiết như tục tắm tiên ngày cũ với một bên là cái đẹp chân chất, trong sáng đến mức thánh thiện trong cuộc sống đời thường, còn kia là sự gò ép dàn dựng, khó có thể so sánh được.

Ru con.
 Âu cũng là cái đương nhiên của sự phát triển để đánh đổi phần nào bản sắc dân tộc vùng cao, vùng xa... và những cái mất đi sẽ chỉ còn tồn tại trong ký ức, trong những tấm ảnh còn lại của ngày xưa hay hiếm hoi một đôi nơi xa khuất ánh sáng hiện đại bây giờ. Nếu biết trân trọng phong tục cổ truyền, nếu nhìn sự việc dưới ánh mắt nghệ thuật, biết chiêm ngưỡng vẻ đẹp của suối nguồn Tây Bắc, Tây nguyên trong một chiều các cô sơn nữ tắm tiên thì bạn sẽ thấy lòng mình trong sáng, thanh cao hơn như được hòa mình cùng đất trời và người của vùng cao huyền thoại... Nhưng những cảnh này còn được bao lâu dưới con mắt soi mói của cái gọi là "văn minh" trần trụi của người miền xuôi? Du lịch, GO! - Biên tập từ BĐVN, Zing, MTH Blog, Nguoinoitieng, SGTT và rất nhiều nguồn khác.
Cọn nước.

Lên nương. (Lên rãy làm việc)

 

Friday, October 3, 2014

Dân tộc thiểu số ở Miền Bắc- Trung- II


II. Tục “kéo vợ” của người Dao Đỏ
Dao Đỏ là người Dao mà phụ nữ thường đội khăn hay mũ đỏ, mặc áo màu xanh đen có các nẹp cũng màu đỏ. Y phục của phụ nữ Dao Đỏ đẹp nhất trong các dân tộc thiểu số trên vùng thượng du Bắc Việt
Trời Tây Bắc vào xuân, thiên nhiên giao hòa, cây cối nảy lộc, cũng là lúc những chàng trai Dao Đỏ hòa vào điệp khúc mùa xuân – điệp khúc của tình yêu– đang tràn ngập trên khắp núi đồi với tục lệ riêng của người Dao Đỏ: “Kéo người mình thương về… làm vợ!”. 

Từ những ngày giáp Tết đến hết tháng Giêng, khi nhà nào thóc cũng đã đầy bồ, thịt đã treo kín trên ránh bếp, người người được nghỉ ngơi chuẩn bị cho vụ mùa năm tới thì cũng là lúc trai gái đến tuổi trưởng thành hướng theo tiếng gọi của tình yêu đôi lứa, lo chuyện xây dựng mái ấm gia đình.

Nếu các dân tộc thiểu số khác thuộc vùng Tây Bắc có tục “ngủ thăm”, “chọc sàn”, “bắt vợ” v.v… để chàng trai có thể lấy được người con gái mà mình yêu về làm vợ thì dân tộc Dao Đỏ có tục kéo vợ. 


Truyện kể rằng, ngày xưa có một chàng trai nhà nghèo đem lòng say mê một cô gái xinh đẹp con nhà giàu. Không đủ bạc trắng, không có trâu, dê để cưới hỏi cô, chàng chỉ biết thầm thương trộm nhớ, còn cô gái thì hoàn toàn không đoái hoài gì tới chàng.


Một bản người Dao Đỏ với các ruộng bậc thang

Thế rồi một ngày kia, tấm chân tình của chàng đã thấu tới thần, Phật và đấng linh thiêng. Thần đã báo mộng cho chàng rằng hãy làm sao bắt cóc được cô gái về, nhân duyên sẽ thành. Chàng làm theo và đã bắt được người mình yêu về giữ trong nhà mình. Tính tình ương ngạnh của cô gái đã được tình cảm chân thành của chàng cảm hóa, họ yêu nhau, sống với nhau, sinh con đẻ cái và sống đến trọn đời.

Chuyện xưa thể hiện ước mơ của những người nghèo túng không có khả năng trả nổi tiền cưới để lấy được người mình yêu. Tính “hợp lý” của câu chuyện đã có từ xa xưa và được thể hiện đầy đủ trong cuộc sống của thanh niên dân tộc Dao Đỏ cho đến ngày nay.

Giữa lưng chừng những vách đá còn phủ sương sớm, các chàng trai, cô gái người Dao Đỏ dường như đã hẹn hò từ trước, ngồi bên nhau, trao nhau những lời nói yêu đương, tình tứ. Chờ đến chiều, dường như đã hiểu nhau hơn, chàng trai cùng với bè bạn của mình bắt đầu “kéo” người mình yêu về làm vợ.

Theo giải thích của người Dao Đỏ, không phải cứ thấy cô gái nào xinh xắn, giỏi giang là kéo về nhà mình làm vợ. Thật ra, trước khi “kéo vợ”, đôi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất kỹ, rồi ưng nhau. Kéo vợ chỉ là phong tục “bắt buộc phải có” để người con gái chính thức bước chân về nhà chồng.

Sau khi bị “kéo” về nhà chàng trai, cô gái được giữ ở trong nhà 3 ngày và vẫn sinh hoạt bình thường, được cha mẹ chàng trai xem như con cái trong nhà. 

Sau 3 ngày, nếu ưng thuận, cô gái Dao Đỏ sẽ cắt bớt tóc và trở thành người vợ chính thức trong gia đình, chờ đến khi nào kinh tế khá giả họ mới tổ chức đám cưới, còn nếu không ưng thì lại trở về nhà mình. Chính vì thế, phong tục “kéo vợ” có tính hợp lý trong sinh hoạt của người Dao Đỏ.

III. Tục “cạy cửa ngủ thăm” của người Dao Tiền

Dao Tiền là người Dao mà phụ nữ thường đeo vòng cổ hay vòng tay chân có các đồng tiền bằng đồng hay bằng bạc, khi cử động chúng kêu leng keng thánh thót rất hay. Trên đất nước Việt Nam có 54 sắc tộc (thường gọi là “dân tộc”) cùng chung sống. Mỗi dân tộc có những phong tục, tập quán mang nét độc đáo, rất riêng. Quý bạn đã từng nghe nói đến Lễ bỏ mả ở Tây Nguyên, Chợ tình (ở Khâu Vai – Hà Giang) v.v…, chúng tôi muốn giới thiệu với quý bạn một phong tục đặc biệt của người Dao Tiền ở vùng Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ: tục “cạy cửa ngủ thăm”.



 

Bản Cỏi thuộc xã Xuân Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, nằm dựa lưng vào núi. Một bên giáp huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình, phía bên kia giáp với huyện Phù Yên của tỉnh Sơn La. Bản Cỏi được bao quanh bởi suối và các núi non hùng vĩ. Nơi đây tập trung các dân tộc Dao, Mường… sinh sống. Cả bản có 66 hộ dân với 350 nhân khẩu.

Theo sự giải thích của người dân nơi đây, “ngủ thăm” có nghĩa là con trai, con gái đến tuổi trưởng thành đều có thể “cạy cửa ngủ” để thăm nhà nhau. Tuy nhiên, theo phong tục và quy định riêng của người Dao và người Mường từ bao đời nay, chỉ con trai người Mường mới được lấy vợ người Dao, còn con trai người Dao không được lấy gái Mường.

Các cô gái đến tuổi trưởng thành, ban ngày đi làm công việc đồng áng, tối đến thắp một ngọn đèn, buông mùng sớm và nằm trong đó. Các chàng trai có nhu cầu tìm hiểu người con gái mình sẽ lấy làm vợ, có thể tìm đến thăm nhà cô gái. Nếu thấy đèn trong buồng cô gái còn sáng, nghĩa là chưa có ai đến ngủ thăm, chàng trai phải tự cạy cửa để vào trong nhà, nằm xuống bên cạnh cô gái, cô này sẽ tắt hoặc vặn nhỏ ngọn đèn. Hai người chỉ trò chuyện, tâm sự mà không được đụng chạm vào người nhau. 

Sau một thời gian tìm hiểu, cô gái có quyền quyết định xem có nên cho chàng trai đó “ngủ thật” hay không. Nhưng trước khi đi tới “ngủ thật”, hai người phải thưa với bố mẹ để bố mẹ coi có hợp tuổi với nhau không. Nếu hợp tuổi, gia đình sẽ cho phép đôi bạn trẻ “ngủ thật” với nhau 

Sau khi thời gian “ngủ thật” bắt đầu cũng là lúc chàng trai phải đến làm công cho gia đình cô gái. Cứ ngày đi làm cùng gia đình, tối về ngủ với cô gái mình có ý định tìm hiểu. Trong thời gian này, chàng trai không được về nhà mình, muốn về phải được gia đình cô gái cho phép. Nếu cô gái không thích chàng trai nữa thì cô ta sẽ gói quần áo cùng với một gói cơm nắm cho vào cái địu và bảo chàng trai: “Anh cứ về thôi!”, như thế có nghĩa là cô gái đã từ chối. Hoặc cũng có khi, cô gái bảo: “Hôm qua, em nằm mơ thấy không thể chung sống với anh được”, đó cũng là một cách từ chối nhẹ nhàng. 

Nếu bạn là người Kinh, bạn vẫn có thể đến “ngủ thăm” ở nhà bất cứ một cô gái nào bạn thích, miễn là cô gái ấy chưa có ai đang “ngủ thăm” đêm hôm đó hoặc đã có người “ngủ thật”; và phải nhớ là bạn không được làm một điều gì… “thiếu trong sạch” khi muốn thử cái phong tục rất độc đáo này. Cũng có trường hợp cô gái để cho hai chàng trai đến “ngủ thăm” ở hai bên cạnh mình. Phong tục của họ cho phép như vậy. Trong trường hợp này, cả hai chàng trai cùng chuyện trò, tâm sự với cô gái, ai nói giỏi hơn thì người đó thắng.

Cho đến thời điểm này, các hãng du lịch vẫn chưa có các tour đưa du khách đến Bản Cỏi. Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều du khách tự động thuê xe đến đây để khám phá thiên nhiên hoang sơ và những phong tục tập quán kỳ lạ… có một không hai này!

Để đến được Bản Cỏi, người ta có thể mua vé xe tuyến Hà Nội – Phú Thọ ở bến xe Kim Mã Hà Nội (giá vài chục ngàn đồng/vé), xuống xe tại thị trấn của huyện Thanh Sơn.

Ở chợ của thị trấn Thanh Sơn có rất nhiều mặt hàng của đồng bào các dân tộc quanh vùng mang đến bán hoặc trao đổi hàng hóa như: thổ cẩm, đồ lưu niệm, hàng tiêu dùng, đặc biệt là các loại thuốc Nam. Giá nhà nghỉ ở đây tương đối rẻ, khoảng 50-100 ngàn đồng/phòng giường đôi, còn nhà trọ thì 10-20 ngàn đồng/người/ngày. Trung tâm thị trấn cũng có nhiều điểm vui chơi với giá cả rất rẻ và người dân ở đây hết sức thật thà, mến khách.

Từ thị trấn Thanh Sơn người ta có thể thuê xe ôm đến Bản Cỏi, khoảng 50-70 ngàn đồng/xe chở 2 người. Cánh xe ôm ở đây tay lái rất vững, khách có thể yên tâm dù cho quãng đường đồi núi gập ghềnh.

Tuy Bản Cỏi chưa có khách sạn và nhà nghỉ nhưng khách có thể đến gõ cửa bất cứ một ngôi nhà nào, bảo đảm không phải trả tiền mà còn được chủ nhà coi như thượng khách.

Thursday, October 2, 2014

Phong tuc Dân tộc thiểu số ở Miền Bắc- Trung



Tôi nhận được môt bài củ bạn đọc viết về
Dân tộc thiểu số ở Miền Bắc- Trung.
 
Một số lớn các người dân tộc thiểu số là các người chạy trốn Mông Cồ trong thập niên 1250, lúc Hốt Tất Liệt và Lương Ngôn Hop Thai sang đánh Đại Lý (Vân Nam).
 
Xin đăng lên để các bạn cùng xem.
I. Tục “coong trình” của người Dao Đỏ ở Sa Pa
Ở Sa Pa, người Dao Đỏ có dân số đứng thứ hai sau người H’Mông (Hơ Mông, hay còn gọi là người Mông). Họ cũng có nguồn gốc từ Vân Nam, Trung Quốc, và là một bộ phận nhỏ của tộc người Dao di cư vào Việt Nam từ thế kỷ XIII đến những năm 1940 của thế kỷ trước. Họ sống tập trung đông nhất ở các xã Tả Phìn, Nậm Cang, Thanh Kim, Suối Thầu, Trung Chải…
Theo các nhà nghiên cứu thì người Dao có quan hệ mật thiết với người H’Mông. Trước đây, hai nhóm này được cho là có cùng nguồn gốc, nhưng sau khi thiên cư từ Trung Hoa vào Việt Nam thì hai cộng đồng này đã hình thành những đặc điểm khác nhau. Ngày nay, đến Sa Pa chúng ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa người Dao và ngươi Hơ Mông về hình dáng, trang phục, cách sinh hoạt v.v…, nhưng họ vẫn chung sống tại cùng một vùng núi mặc dầu nơi cao nơi thấp khác nhau.
Nếu người H’Mông thường chọn những nơi núi cao để ở thì người Dao lại chọn thung lũng hoặc lưng chừng núi ở để tỉa ngô, trồng lúa và thảo quả. Các lái buôn thường đến tận nhà thu mua, mang bán sang Trung Quốc nên cuộc sống của họ cũng khá. Nhiều nhà có xe máy, tivi, thậm chí là cả xe hơi, máy kéo dùng trong nông nghiệp.
Tộc người Dao có nhiều nhóm, nhưng sinh sống ở Sa Pa chủ yếu là người Dao Đỏ, bởi phụ nữ thường quấn khăn đỏ hay đội mũ đỏ, áo màu xanh đen nhưng có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, ở vạt áo và tà áo. Trang phục của họ được xem là đẹp nhất ở Sa Pa. Phụ nữ Dao Đỏ còn có tục tỉa bớt chân mày và tóc phía trên trán cho đẹp. Họ cũng có chữ viết riêng dựa theo chữ Hán cổ gọi là chữ Nôm Dao, nhưng loại chữ này nay chỉ người cao tuổi mới đọc, hiểu và viết được. 
Nấu rượu
 Người Dao có tín ngưỡng rằng loài chó là tổ tiên của họ nên chó luôn luôn được quý trọng. Ngoài ra, đàn ông chỉ được coi là trưởng thành sau khi đã chịu lễ cấp bằng sắc của nơi thờ cúng. Họ cũng có các tục lệ khác như gia đình nào đang nấu rượu thì cắm một cành cây trước cửa, không cho người lạ vào vì quan niệm rằng hễ có người lạ vào là rượu sẽ chua và khê. Khi thấy có dấu hiệu cắm lá trước cửa nhà người Dao, người ta kiêng không vào. Trong gia đình có phụ nữ sinh nở cũng cắm cành lá trước cửa để không cho người lạ vào, sợ đứa trẻ mới sinh sẽ khóc nhiều.
Họ cũng có tục kiêng sờ đầu trẻ con. Khi cắt tóc, cạo đầu cho trẻ họ để một chỏm tóc ở đỉnh đầu vì cho rằng đó là nơi trú ngụ của hồn vía con người, để chỏm tóc như vậy trẻ sẽ không hay ốm đau. Họ cũng quan niệm là nam và nữ khi chưa kết hôn thì không được chụp hình chung. Khách du lịch muốn chụp tốt nhất là hỏi trước họ.
Mỗi năm người Dao cũng có những lễ hội đặc biệt như: “Hội tết, nhảy múa” tổ chức vào ngày Mồng một và Mồng hai tháng Giêng; “Hát hội giao duyên” vào ngày Mồng mười tháng Giêng ở bản Tả Phìn, cách thị trấn Sa Pa khoảng 12km. Bản này nổi tiếng với các loại thổ cẩm đủ màu sắc và kiểu dáng do bàn tay khéo léo của phụ nữ H’Mông hoặc phụ nữ Dao tạo nên. Đặc biệt, họ có bài thuốc tắm bằng lá cây rừng của tổ tiên người Dao Đỏ truyền lại đến ngày nay, rất tốt cho du khách đi đường xa mệt mỏi.
Thiếu nữ Dao Đỏ thoải mái ngủ với người lạ
Người Dao Đỏ không coi quan hệ “không phải vợ chồng” là vô đạo đức. Họ gọi chuyện đó là “coong trình”, thậm chí càng “coong trình” với nhiều đàn ông càng tốt.
Bản Tân Phong ở tỉnh Lào Cai là nơi có nhiều người Dao Đỏ sinh sống. Cách đây ít lâu, một sinh viên Nông Lâm ngoài hai mươi tuổi, mới ra trường, được cử về phụ trách kiểm lâm tại địa phương nên chưa hiểu gì về phong tục tập quán của người Dao Đỏ. Tới cơ sở, cậu được giới thiệu tạm thời ăn ngủ tại nhà ông trưởng bản. Đêm ấy, sau khi chủ nhà mổ gà, mời cán bộ kiểm lâm một chầu rượu say, cậu lăn ra ngủ. 
Chừng nửa đêm, có hai cô gái tuổi độ 17-18 đến bên giường kéo áo cậu lôi dậy. Cậu chưa hiểu ra sao thì các cô thì thầm vào lỗ tai cậu: “Cán bộ ra rừng ngủ với chúng tao đi. Chúng tao thích cán bộ mà. Dậy đi ra rừng ‘coong trình’…” 
Cậu kiểm lâm cố rụt đầu vào trong chăn thì hai cô gái càng lôi cậu mạnh hơn khiến cậu vô cùng sợ hãi. Trước khi lên vùng thượng du, người ta đã kể với cậu chuyện ma cà rồng hút máu người. Ma cà rồng hiện hình qua các cô gái xinh đẹp, đêm đêm đi tới các ngôi nhà, chờ thiên hạ ngủ say rồi cắn vào cổ, hút máu người đang ngủ. Ai bị ma cà rồng hút máu thì da vàng bủng vì mất máu rồi chết.
Trong ánh lửa từ lò nấu cám lợn và ngọn đèn đốt bằng mỡ trâu đặt trên giá của chiếc cột giữa nhà hắt tới, gương mặt hai cô gái Dao đẹp hoang dại, rực rỡ như hai đóa hoa rừng, cậu sợ quá hét lên. Nghe tiếng kêu, ông trưởng bản trở dậy. Thấy hai cô gái, ông bật cười nói gì đó với họ, họ cười rồi bỏ đi.
Sáng hôm sau, ông trưởng bản giải thích về tục “coong trình” của người Dao Đỏ cho cậu nghe rồi cười bảo cậu: “Mấy đứa con gái nó thích thanh niên miền xuôi nên muốn kéo cán bộ ra rừng ngủ với tụi nó đấy mà”. Cậu kiểm lâm trẻ tuổi bấy giờ mới tiếc hùi hụi! 
Tháng 3 năm sau, hạt kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức lễ cúng rừng và làm thủ tục để người dân ký hợp đồng nhận khoán, bảo vệ rừng. Buổi tối, cậu kiểm lâm trẻ tuổi rủ cô gái Dao Đỏ xinh nhất trong bản vào rừng. Nhưng vừa mới ôm cô gái vào lòng thì cô ta hét toáng lên rồi vùng bỏ chạy về bản. Thì ra, cô gái không đồng ý “coong trình” với chàng kiểm lâm nên chàng bị phạt vạ.
Theo phong tục, chàng kiểm lâm phải mua hai con gà trống và hai chai rượu để gia đình cô gái cúng ma, gọi hồn cô gái lạc ngoài rừng về.
Kể lại chuyện này, anh chàng kiểm lâm cười khì khì: “Hồi ấy mình còn trẻ, chưa biết gì về phong tục của họ chứ bây giờ thì cứ cô nào thích là mình “coong trình” đại, chả tốn một đồng nào cả, lỡ có bị phạt cũng… rẻ!”. “Thế lỡ cô ấy có con thì sao?”. “Thì cô ta nuôi. Cô ta “coong trình” với bao nhiêu người, đâu biết là con của ai”.
 
Ông Đặng Văn Tâm, hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Lục Yên và ông Hoàng Cửu Tung, trạm trưởng Trạm Kiểm lâm Tân Phong nói rằng Tân Phong là nơi có tới 96% dân chúng là người Dao Đỏ. Kể lại chuyện của mình, ông Tung cười: “Năm 2006, tôi được phân công phụ trách địa bàn xã Tân Phong. Hôm ấy đã muộn, tôi nghỉ lại tại nhà của một gia đình ở thôn Khiểng Khun. Chủ nhà mổ gà tiếp đãi tôi rất niềm nở. Cả chủ lẫn khách đều uống rượu say quá chừng. Người vợ của chủ nhà nhìn tôi với đôi mắt long lanh lạ lắm. Đêm ấy đã khuya, tôi đang ngủ thì thấy một phụ nữ chui vào trong mùng rồi ôm lấy tôi. Tôi giật mình tỉnh dậy thì thấy người ôm mình là vợ chủ nhà. Chị ta thì thầm vào lỗ tai tôi: “Mình thích cán bộ, cán bộ ‘coong trình’ mình đi!”. Tôi hoảng quá bèn mở cửa chạy ra ngoài vì sợ chủ nhà tỉnh dậy, nhưng anh ta vẫn ngủ say như chết. Anh ta uống rượu say quá! Vậy là tôi bèn quay trở lại mùng và “coong trình” cho vừa ý vợ chủ nhà…” 
 
 
 
Chuyện quan hệ tình dục của người Dao Đỏ khá phóng khoáng. Có người giải thích rằng do cuộc sống khép kín của cộng đồng người Dao Đỏ, nên quan hệ hôn nhân cận huyết khiến nhiều cặp vợ chồng vô sinh hoặc có những đứa trẻ sanh ra dị dạng hay kém phát triển về trí tuệ cũng như thể hình. Chính vì thế nên phụ nữ Dao Đỏ có phong tục duy trì nòi giống bằng cách quan hệ với nhiều đàn ông khác có vóc dáng cao to, đẹp trai, để sinh ra những đứa con khỏe mạnh, xinh đẹp.
(Người Eskimo ở Bắc cực cũng vậy, cuốn “The Eskimos” của Mục sư Peter Jergens người Mỹ nói rằng khi khách tới igloo (nhà hình vòm xếp bằng các tảng băng của người Eskimo) thì được mời ngủ chung với vợ chủ nhà. Hàng xóm đi săn trên tuyết mà vợ không đi theo được thì có thể “mượn” vợ của bạn gần đấy, và người đàn bà này sẽ phục vụ mọi chuyện kể cả việc “thay thế người vợ” một cách tự nhiên bất cứ lúc nào, không hề mặc cảm. Nếu may mắn có con, đứa trẻ sẽ thuộc về người chồng đã cho mượn vợ chứ không phải thuộc về người đi mượn).  
Tập tục “coong trình” đã có từ lâu đời, chợ tình Sa Pa của người Dao Đỏ phải chăng là để giao lưu tình cảm, thỏa mãn nhu cầu tình dục hay sâu xa là cải tạo giống nòi? Điều này các nhà khoa học sẽ nghiên cứu tiếp để giải đáp. Nhiều người kinh ngạc khi nhìn thấy các cô gái Dao Đỏ xinh đẹp lạ thường, họ cho biết: “Các cô gái đó đẹp chẳng khác gì tiên sa. Không ai hiểu họ có phải là sản phẩm trong những đêm “coong trình” do mẹ của họ với những người đàn ông khỏe mạnh, đẹp trai ở nơi khác đến hay không?”.
Ông thợ săn tên là Bàn Phúc Châu sau khi nghe phóng viên hỏi về phong tục “coong trình” và hỏi thật rằng trong đời ông đã “coong trình” với bao nhiêu phụ nữ rồi. Ông cười, rung đùi đầy hứng khởi: “Ô, không nhớ hết đâu. Mình xấu trai, các cô gái ít cô thích. Nhưng nếu vợ người ta thích thì mình cũng “coong trình” luôn”. “Lỡ chồng họ bắt được?”. “Thì mình bị nộp phạt hai con gà và một chai rượu, rẻ thôi mà”.
Ông cười khoái trá rồi lại kể tiếp: “Vợ mình chắc nó cũng đi “coong trình” với nhiều đàn ông khác lắm nhưng mình không biết thì chịu, không được bắt phạt gà, rượu. Còn nếu nó có con với người ta thì cũng chả sao, đứa con đó gọi mình là bố chứ có gọi người kia là bố đâu. Có người không có con còn phải mua con nuôi nữa kia mà. Người Kinh bảo cá vào ao nhà ta là cá của ta, thì có gì mà phải buồn”. 
 
ChịTriệu Thị Luyến, người hàng xóm của ông Bàn Phúc Châu, được ông mời sang chơi, uống rượu, nghe chuyện “coong trình” thì cứ cười khúc khích. Khi được hỏi ba đứa con của chị Luyến có mấy đứa là con của chồng? Chị Luyến cười, không biết nói thật hay dối: “Cả ba đứa đều là con của chồng em”…
Chị Đặng Thị Tâm, phó chủ tịch xã, cười ý nhị, bảo: “Ba đứa con của Luyến đều gọi chồng của nó bằng bố đấy. Còn em là người bên xã Tân Lĩnh, lúc còn con gái cũng hay “coong trình” nên gặp được chồng em rồi về làm dâu bên xã này”.
Sự phóng khoáng trong chuyện “coong trình”