Đầu mùa xuân năm
nay, con ngựa phi về thật đẹp để đuổi rắn độc đi, làm anh bạn tôi Nguyễn Hữu Lộc,
cựu GS Sử địa- Trung Học Cao Lãnh- Kiến Phong, hứng chí đăng lên bài thơ Xuân
Đán của cụ Chu Văn An- đời Trần. Nhiều người dịch bài thơ này, nhưng chữ yên
trong câu 7 đã tạo ra một tranh luận. Người thì cho chữ "yên" này là
do khói thuốc hút, mà thuốc hút này phải là thuốc. Còn một số người lại cho là
khói hơi nước từ bình trà.
Trước hết chúng
ta cùng thưởng thức bài thơ nguyên thủy của cụ đồ đã từng dâng thất trảm sớ yêu
cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu 7 nịnh thần, tham quan, nhưng thất bại. Sau đó, cụ chán nản từ quan quay về dạy học ở núi Phượng Hoàng- Chí Linh, Hải Dương. Ngày
nay, ở Hải Dương còn một đền thờ ông trên đường đi từ Hà Nội vể Hải Phòng. Lẽ
dĩ nhiên, ta cũng cùng thưởng thức các bài thơ dịch. Bài dịch thì mỗi người một
vẻ, mười phân vẹn mười, dù ý là khói gì cũng vậy.
春旦
XUÂN ĐÁN
|
寂寞山家鎮日閒,
Tịch mịch sơn gia trấn nhật Nhàn,
竹扉斜擁護輕寒。
Trúc phi
tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉,
Bích mê
thảo sắc thiên như tuý,
紅濕花梢露未乾。
Hồng thấp
hoa sao lộ vị can.
身與孤雲長戀岫,
Thân dữ cô
vân trường luyến tụ,
心同古井不生瀾。
Tâm đồng
cổ tỉnh bất sinh lan.
柏薰半冷茶煙歇,
Bách huân
bán lảnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。
Khê điểu
nhất thanh xuân mộng tàn
朱文安 Chu Văn An |
Nghĩa:
An nhàn trong ngôi nhà ở nơi núi vắng.
Mành trúc, xéo xẹo giúp cho làm bới lạnh.
Cỏ xanh mướt, Trời như say (1).
Hoa màu đỏ, chua kho sương sớm.
Thân cô đơn như đám mây vẫn quyến luyến đỉnh núi.
Lòng như giếng xưa, không một gợn sóng.
Những nhánh tùng bách cháy tàn, làm khói trà cũng hết.
Tiêng chim bên ke kêu lên một tiếng làm tỉnh mộng xuân.
(1) Có người dịch là màu xanh cỏ làm ngây ngất bầu trời.
Nhưng tôi nghĩ là cụ Chu Văn
An đang uống trà vào sáng sớm hay chiều tà, lúc bầu trời đỏ như say rượu. Lại
nữa, cụ tả câu sau là sương chưa khô, vậy là buổi sáng
Bài dịch đầu
tiên là của người viết bài gởi email cho một số bạn yêu thơ:
SỚM MAI ĐẦU
XUÂN
Ngày nhàn hạ trên non
lều vắng ,
Cửa trúc phên nghiêng
chắn gió hàn .
Trời trong cỏ biếc
ngút ngàn ,
Hồng dầm sương sớm
chưa tan lệ tràn .
Thân tựa mây núi ngàn
lưu luyến ,
Sóng lòng như giếng cổ
lặng căm .
Hương phai trà nguội
khói tan ,
Chim kêu trong suối
mộng tàn giấc Xuân .
Mailoc phỏng dịch
Cali mùng 4 Tết Giáp Ngọ
SỚM XUÂN
Nhà tịch mịch núi
cao nghe vắng vẻ,
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Đỗ Chiêu Đức.
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Đỗ Chiêu Đức.
Xuân Sớm
Vắng tanh sơn ốc,
suốt ngày nhàn,
Rèm trúc treo nghiêng
cũng đỡ hàn.
Thắm biếc cỏ màu,
trời tựa sỉn,
Đượm hồng hoa
chỏm, sương chưa tan.
Thân như mây nổi,
cùng ưa núi,
Tâm giống giếng
xưa, chẳng gợn làn.
Sắp hết củi
thông, trà hết khỏi,
Tiếng chim bên
suối, mộng xuân tàn.
Danh Hữu
SỚM XUÂN
Ở núi buồn hiu người nhẹ bỗng
Cổng tre cọt kẹt gió chênh chông
Trời nghiêng cỏ biếc say xuân sắc
Một đóa hồng nhung sương phủ hồng
Thân dạt góc trời mây tâm sự
Lòng ta đã cạn , sóng nào rung
Củi tàn , hơi lạnh , thuốc trà hết
Chim núi kêu xui lạnh cõi lòng
C.D.M.
Xin bấm vào hình
đê xem cho rõ
No comments:
Post a Comment