Sáng hôm sau,
chúng tôi kéo nhau về thăm ngôi nhà cũ, nơi vợ chồng con cái chúng tôi đã ở
trong thời gian 1976 đến 1981. Đây là khoảng thời gian bi thương nhất của vợ
chồng tôi. Mỗi ngày chúng tôi chỉ hy vọng kiếm ra được 1 lon gạo để độn khoa mì
(sắn) do tôi trồng, cho vợ chồng con cái sống qua ngày, nhưng ngày hôm sau thì
sao? Tuy nhiên, ngôi nhà tôi ở thì khá đẹp với cầu thang lên nhà uốn cong và
nhà nhìn ra vịnh Cần Giờ. Ngôi nhà này là tiền mẹ tôi dạy học ở Ziên Hồng và
tiền tôi dạy tư các lớp toán lý hóa Đồng Tiến.
Xe rời khách
sạn chạy trên đường Hạ Long để về ngôi nhà cũ ấy trên hẻm Hải Đăng. Đường Hạ
Long bây giờ rộng thêng thang như một đại lộ, đèn đường rất tân kì đẹp đẽ,
chẳng bù cho lúc chúng tôi còn ở nơi đây. Lúc ấy đường nhỏ đủ cho hai xe tránh
nhau một cách rất cẩn thận. Đường này được làm từ thời Pháp thuộc và ven biển
có các lô cốt xây đá và đã sập xuống sau thời gian và mưa gió.
Bên ngoài biển
toàn là đá chất chồng cùng với các vỏ hào sắc như dao cạo.
Khi dự dịnh tổ
chức vượt biên, tôi đã xuống đây vần các cục đá to như cái thúng để làm đường
cho kẻ ra đi. Thời gian này không có gang tay, nên hai bàn tay tôi bị vỏ hào
cắt đứt tan nát. Đã thế bị nước biển ngấm vào làm nhức, sót vô cùng. Nay đứng
trên bờ êm ả nghĩ lại mà còn ớn lạnh.
Xe chạy trên
đường Hạ Long to lớn uốn quanh bở biển. Trước kia, đường này hẹp quanh co, ít
người qua lại, nên rất buồn.
Qua bãi Dứa,
nơi các ngôi biệt thư của cựu Tổng Thống Thiệu, Tổng Trưởng Phạm Kim Ngọc…tôi
không còn thấy dấu vết mà thay vào đó là các khách sạn to lớn, bề thế. Đây cũng
đã từng ghi các kỉ niệm u buồn cho chúng tôi. Năm 1979, tôi đã bị công an Bãi
Dứa bắt vì tôi tổ chức vựơt biên rồi đem đi tù ở Bình Ba. Câu truyện đã làm vợ
tôi hết nước mắt.
Một lúc sau,
xe qua vùng lô cốt sập thì không thấy lô cốt ấy nữa. Cái lô cốt chẳng mấy đẹp
ngoài hình dáng vì các bờ tường đổ nát, cỏ hoang lan tràn, nhưng nó quá đẹp
trong lòng tôi vì một kỷ niệm.
Sau khi được
trả tự do từ trại hoc tập Bến Tre năm 1976, tôi về đây để mong tìm cách đưa gia
đình vượt biên.
Việc đầu tiên
của tôi ở đây là phải làm cho công an khu vực tin tưởng là một công dân tốt của
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Muốn thực hiện điều đó, tôi hàng ngày
cùng Phương, một cựu hạ sĩ quan trường truyền tin, gần nhà tôi, lấy vỏ xe cũ
chất quanh bụi le rồi đốt. Le là một loài tre đặc biệt ở Núi Lớn và Núi Nhỏ,
Vũng Tầu. Thân le trung bình bằng ngón chân cái, cao độ 4 thước, thân không có
gai. Năng le ăn rất ngon, và dễ kiếm, vì le mọc nhan nhản ở cả hai núi. Khi bụi
le chết, chúng tôi lấy xà beng lớn bằng cườm tay, dài hơn 1 thước, nậy gốc các
bụi le lên, lấy đất trồng hoa mầu. Nhiều bụi le, gốc lan rộng như vài cái
chiếu, nên việc này không dễ ăn. Thời gian này, chúng tôi không tìm đâu ra găng
tay, nên bàn tay chúng tôi phòng lên, rướm máu sau hơn một tuần làm việc. Tuy
nhiên, chúng tôi vẫn phải tiếp tục công việc đó, trong nhiều tháng trời để làm
được một miếng rẫy.
Phương lấy cô
Châu, con gái của ông chủ nhà thuốc tây Hoàng Mộng Giác, ông bà này đã đi ngoại
quốc từ 1975. Hai vợ chồng Phương sống ở một ngôi biệt thự nhỏ cạnh một khách
sạn trung bình trên đường Hạ Long. Khách sạn này cũng là tài sản của ông bà chủ
nhà thuốc tây, và đã bị CS tịch thu. Ngay trước khách sạn là một quán bán nước
đã bỏ trống. Quán này cũng là tài sản của gia đình Châu.
Cuộc sống nơi
đây thật là buồn tẻ. Sau một ngày lao động vất vả, tối đến trở về nhà ăn cơm
chiều với nước mắm cá khô, tôi lủi thủi một mình lên sân thượng, vì bố hay đi
công tác liên lạc với bà con lối xóm. Mình tôi nhìn về phía cửa sông Cần Giờ,
mà tưởng tượng hình bóng thân yêu của vợ con ở tận chân trời xa thẳm. Hình ảnh
Điệp ôm cu Hi, ru ngủ, bên ngọn đèn dầu, hiện lên trong trí tôi, làm tôi nhớ
nhung vợ con vô hạn. Trong khi đó các hồi chuông rền rĩ của các ngôi chùa ở
chân núi văng vẳng vang lên, đánh tan cái tĩnh mịch của đêm tối, làm tôi cảm
thấy buồn hơn.
Một buổi chiều
hôm đó vợ chồng Châu, Phương mời bố con tôi xuống nhà họ ăn bữa cơm chiều với
canh chua cá chình, một loài cá như lươn biển, nhiều xương, trước 75 chẳng ai
ăn, mà chỉ dùng làm phân bón cây. Loài cá này khi bị nguy chúng sẽ phản công
bằng cách cắn, và cắn đau như chó, nên các ngư phủ rất sợ khi phải tiếp xúc với
chúng.
Bố tôi xuống
đó trước, còn tôi tắm táp xong thủng thẳng xuống sau. Khi qua khỏi chùa Ngọc
Bích, thấy trời còn sớm, nên tôi tản bộ trên con đường Hạ Long ra phía Lò Heo
ngắm cảnh hoàng hôn.
Vừa đi tôi vừa
thầm nghĩ: "Mình lại nhà người ta cả vợ chồng con cái để chia vui cùng họ,
trong khi bản thân mình thì lẻ loi, đơn chiếc. Chẳng biết khi nào sẽ đem được
vợ con về đây?" Hình ảnh Điệp và cu Hi chợt hiện lên trong óc tôi một cách
sống động. Tôi cố đè nén xúc cảm nội tâm cùng những giọt nước mắt sẵn sàng trào
ra.
Ra đến một lô
cốt sập, tôi ngồi xuống một gộp đá nhìn trời nước mung lung, thấy bờ biển quanh
co, buồn tênh, chẳng một bóng người, trong gió chiều nhè nhẹ thổi, cây rừng sào
xạc, một cánh buồm lẻ loi ngoài khơi nổi bật lên trên những đám mây vàng hồng
của buổi hoàng hôn.
No comments:
Post a Comment