CHƯƠNG CUỐI-
TRANH LUẬN (TT)
Trên diễn đàn
Viện Việt Học, một ngừoi dặt câu hoi cho bạn Hồ lợi Đăng:
Một đội binh 20000 quân ta tấn công một trại 5000 kị binh
Mông Cổ. Liệu thắng không?
Chúng tôi viết
bài này để trả lời các bạn nào thắc mắc khi quân ta tấn công Mông Cổ làm sao
chiến thắng. Và xin nhớ dù đây chỉ là câu chuyện giả tưởng, nhưng giả tưởng và
lý thuyết của một chiến thuật trong một trận đánh đều dựa vào sự hợp lý. Trứơc
khi một trận đánh thực sự xảy ra thì chiến thuật cũng chỉ là lý thuyết thôi.
Dưới đây lại một
câu chuyện giả tưởng ấy:
Giữa mùa xuân
năm Mậu Tý (1288), lúc cây cối đua nhau đâm chồi, nẩy lộc, hoa nở khắp nơi, ong
bướm dập dìu, thời tiết mát mẻ, đất đai khô ráo. Thiên nhiên, cảnh sắc thì thật
đẹp, nhưng đất nước Đại Việt đang chìm trong máu lửa. Đây là lần tứ ba mà quân
Mông Cổ sang xâm chiếm nước ta.
Lúc mới sang,
quyên Nguyên chiếm nhiều thắng lợi, nhưng rồi sức kháng cự càng ngày càng gia
tăng. Quân tướng Mông Cổ bắt đầu chán nản vì thuyền lương của Trương văn Hổ có
tin đã bị Tướng Trần Khánh Dư phá hủy, mà thời tiết nóng nực, đã thế mà hết trại
này sang trại khác bị quân ta quấy phá làm lực lượng Mông Cổ thiệt hại. Thoát
Hoan cùng các tướng bàn chuyện rút lui.
Thoát Hoan biết
muốn rút lui thì chia hai ngả thủy bộ. Đạo thủy binh sẽ vượt sông Cả (Hồng Hà),
sang sông Đuống. Tại đây, chia làm hai nhánh vào sông Kinh Môn hay sông Kinh
Thầy, nhưng sẽ hội ở sông Đá Bạc mà vào Bạch Đằng để ra vịnh Hạ Long. Đạo bộ
binh sẽ theo đường mòn qua Kinh Bắc, đến Phủ Thiên Đức (Bắc Giang), vựơt ải Nội
Bàng-Lục Châu (Lạng Sơn) để về châu Tư Minh.
Về phương diện
thủy đạo Hưng Đạo Vương thấy phải áp dụng lại chiến thuật của Ngô Quyền ở Sông
Bạch Đằng.
Về mặt đường bộ,
Hương Đạo Vương nghiên cứu địa hình thấy rằng: con sông Thương chảy theo hướng
đông bắc, tây nam từ Lộc Châu qua Chi Lăng xuống tỉnh Phủ Thiên Đức (Bắc Giang)
thì đổi hướng chẩy về phía tây rồi sang đông nam. Trên đoạn từ bắc sông Hồng
đến nam của Lục Châu (tên cũ của Lạng Sơn) phần nhiều là ruộng khô trong mùa
này, nên khó lòng chiếm lợi thế đối với kị binh giặc. Nhưng khi gần đến Lục
Châu thì núi càng ngày càng nhiều. Vùng Chi Lăng trở lên toàn những núi nhỏ len
lỏi giữa các nói là các cánh đồng hẹp. Đây là điểm rất thích hợp để phục kích.
Hưng Đạo Vương thấy đựơc ý định của giặc sẽ theo hai bên bờ sông này lên Lục
Châu rồi về Trung Quốc, nên ngài quyết định như sau.
Ngài đích thân
chỉ huy chặn đường thủy, còn để chặn đường rút trên bộ Ngài đã sai hai tướng
Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa đem ba vạn quân và 200 kị binh lên phục kích
binh Mông Cổ ở ải Nội Bàng và ải Lộc Châu thuộc Lạng Sơn. Mục đích của Hưng Đạo
Vương là dùng đạo quân này chặn đường rút lui đạo quân trên bộ của Thoát Hoan.
Ở Lục Châu có
rất nhiều rừng núi, tuy nhiên núi không cao lắm. Ở phía đông, gần biên giới, có
ngọn Mẫu Sơn là cao nhất (1,540 m), quanh co trên vùng đất này ngoài con sông
Thương còn có hai con sông khá lớn là Kỳ Cùng, Bắc Giang và vài sông nhỏ uốn
khúc. Các sông này khác với sông Thương ở chỗ chúng thường cản trở sự rút quân
hơn là giúp thuận lợi cho binh Mông Cổ. Trừ các vùng núi cao rừng rậm, phần còn
của tỉnh là các cao nguyên, đồng bằng khô ráo trong mùa đông và mùa xuân rất
tiện lợi cho kị binh Mông Cổ.
Hai tướng Phạm,
Nguyễn cất quân di chuyển theo lệnh.
Tuy nhiên Thoát
Hoan cũng chẳng vừa, y cũng nghĩ tới việc có phục binh trên đường rút về. Muốn
bảo toàn cho việc rút binh trên bộ, Thoát Hoan cho một đạo 5000 kị binh đến gần
biên giới đóng. Đạo này có nhiệm vụ đánh bọc hậu toán binh nào của nhà Trần
phục khích quân binh Mông Cổ trên đường rút lui.
Đóng ở đây được
một thời gian, thì một hôm thám mã báo tin cho hai tướng Phạm, Nguyễn tin về
đạo kị bịnh Mông Cổ ấy. Đạo binh này đóng trên một vùng đồi, đồng ruộng khô
khan thuộc núi Kỳ Cấp- Lục Châu (Lam Giang hay Lạng Sơn), một vùng tuyệt đối
tốt cho kị binh. Khi biết tin đó, tướng Phạm Ngũ Lão muốn tấn công, tiêu diệt
đạo quân này, vì không diệt được chúng thì đó là một thảm họa khi binh Mông Cổ
rút về. Chúng có thể dùng thế gọng kìm làm kế hoạch chặn đường rút quân của
Thoát Hoan bị hư hại. Tuy nhiên, cả hai tướng chưa biết làm sao để có thể chế
ngự được đạo binh thiện chiến trên mình ngựa ấy, và lính ta mất lợi thế. Mặt
khác làm sao ta có thể vừa chặn được Thoát Hoan, vừa có thể đánh tan đạo quân
ấy nếu quân Mông Cổ rút về gấp rút trong mươi ngày hay nửa tháng sắp tới.
Hai tướng bèn bí
mật triệu tập cuộc họp để bàn kế hoạch. Một quan cấp nhỏ họ Vũ đề nghị một biện
pháp. Họ Vũ vốn quê ở Hải Dương, người thông minh, nhưng mới đầu quân nên chỉ
là một quan nhỏ trong hàng quân. Sau khi nghe họ Vũ trình bày chiến thuật, hai
tướng Phạm, Nguyễn bàn nhau kế hoạch tấn công và phong họ Vũ làm quân sư cho
tướng Nguyễn Chế Nghĩa. Hai tướng cho tuyển lựa một vạn binh giỏi về thương và
nỏ trong số ba vạn quân dưới quyền. tướng Phạm giữ hai vạn quân ở lại Nội Bằng,
đề phòng sự rút lui bất ngờ của Thoát Hoan, còn tướng Nguyễn Chế Nghĩa và Vũ
quân sư dẫn một vạn quân vừa được tuyển cùng 200 kị binh lên vùng núi Kỳ Cấp.
Ngày hôm sau, hai người lập tức chuẩn bị, rồi ngày sau nữa họ cho binh lính bí
mật hành quân trong rừng núi đến gần trại giặc.
Khi cách xa địch
độ vài canh giờ, Tướng Nguyễn cùng Quân Sư Vũ cho lính vào rừng hay cùng bất
đắc dĩ vào các buôn, bản của dân thiểu số lân cận chặt tre, luồng hay nứa cùng
lấy dây thừng hoặc dây rừng cho khiêng về (Luồng là một loài tre rất lớn không
gai, giống như tre Mạnh Tông ở miền Nam, còn nứa cũng là tre không gai, nhỏ,
mỏnh mà lóng rất dài.) Tre, nứa thì mọc nhan nhản khắp nơi trong rừng cũng như
các làng mạc ở miền bắc và trung. Nếu cần thì cho chặt cây to bằng ngón chân
cái cho đến bằng tay cổ cũng được. Địa phận này lợi cho bộ binh mà bất lợi cho
kị binh, nên ta không sợ giặc đánh bất ngờ, vì chúng biết câu: dị lâm mạc nhập.
Tại đây các sắc
dân thiểu thấy binh ta tới, nên đổ xô ra giúp. Họ biết binh ta sắp đánh binh
Mông Cổ nên rất hồ hởi giúp quân Trần trong việc chặt tre, cây và lấy dây rừng.
Nhờ vậy mà công việc thu ngắn thời gian rất nhiều, mà đã thế còn được thêm
nhiều vật liệu.
Phần tre non
được chẻ làm lạt, phần tre già hay cây rừng bằng cổ tay được cắt thành từng
khúc dài độ 1 sải tay (từ 1,5 m đến 1, 6 m). Tre, luồng lớn thì chẻ làm đôi hay
làm bốn, tùy theo cỡ. Sau đó, hai đầu các khúc này đều được vát nhọn như mũi
mác, được gọi là khúc chính. Còn các cành tre và cây nhỏ hơn cũng được chặt
thành khúc dài hơn nửa sải tay và vuốt nhọn như chông, được gọi là khúc phụ.
Tất cả quân lính cùng thanh niên trai tráng thi nhau làm việc. Phụ nữ em bé thì
nướng khoai, luộc ngô, sắn cho mọi người ăn. Công việc diễn tiến hết sức tốt
đẹp và tinh thần binh sĩ lên rất cao.
Sau khi công
việc này xong, Tướng Nguyễn cùng Quân Sư Vũ chia lính thành từng tổ, mỗi tổ hai
người lính và một hay hai dân tộc thiểu số giúp. Mỗi tổ lấy ba khúc chính (tre
hay cây dài), rồi dùng lạt tre hay dây rừng buộc lại với ở chính giữa và nhau
thẳng góc với nhau ( theo 3 trục x, y, z trong hình học giải tích hay hình học
không gian với gốc tạo độ O là chính giữa, chỗ buộc). Để tăng cường sức mạnh,
họ lấy các khúc phụ (cành nhỏ) nối liền các thân chông chính với nhau, rồi lại
nối thêm các mũi chông nhỏ đâm từ tâm ra ngoài. Với cái bàn chông di động này
khi được quăng ra mặt đất, bất kỳ dưới góc cạnh nào, đều có 3 mũi chính và chục
mũi phụ nhọn hoắt chĩa lên trên. Nếu có một sức mạnh nào đè lên bàn chông thì
đầu kia càng cắm sâu xuống đất bấy nhiêu và nó trở nên mạnh hơn. Khi bàn chông
hoàn tất sẽ là một khối lập phương, với các mũi nhọn đâm ra ngoài, nhìn giống
như con cầu gai hay con nhím.
Như vậy, quân ta
có 5000 bàn chông di động.
Về vũ khí, mỗi
tổ trên, một ngừơi mang nỏ, một ngừơi mang trường thương.
Một số luồng độ vài
chục cây thật tốt, không quá non mà cũng
chẳng quá già, thân to, mắt dài, cao độ bốn, năm sải tay được bào gọt sạch.
Lóng trên cùng ở ngọn được vát đi một nửa. Ở gần đọt được cột hai sợi chão; một
sợi dài hơn cây luồng, còn sợi ngắn dài khoảng 3 sải tay. Thêm vào đó một số
cọc được chặt từ cây dẻ[1]
rừng to bằng bắp tay, dài độ nửa sải tay một đầu vát nhọn; đầu kia được đẽo móc
hay dùng mắt cây thay thế. Bẩy người lính trang bị cuốc, thuổng và đao được phụ
trách mang cây luồng này cùng các thứ dẫn cháy như diêm sinh, thạch tiêu, vải
rách..
Sáng hôm sau,
đội hộ chông, mỗi người được phát thêm một đọan dây thừng hay dây rừng to như
ngón chân cái, rất bền, dai, dài khoảng ba, bốn sải tay, cùng được chỉ cách sử
dụng. Tất cả đều được nghỉ suốt ngày. Sau khi ăn cơm tối, mỗi tổ dùng thương
làm đòn gánh, vừa đi vừa nghỉ, gánh cái bàn chông cầu gai ra tấn công địch
quân. Đây là cách hành quân bí mật, làm giặc hoang mang khi thấy quân ta tới
bất ngờ. Để tránh giặc cho quân cầu viện ở bên kia biên giới, Tướng Nguyễn cho
100 kị mã vượt rừng ra phía sau trại binh Mông Cổ, khá xa phục kích.
Nhờ vào sự chuẩn
bị ở trong rừng, nên bên ta bảo toàn được bí mật.
Đến cách đồn
giặc khoảng một dặm, cũng vừa nửa đêm, ta dừng quân lại.
Trại binh Mông
Cổ ở trên một quả đồi cỏ thoai thoải, cũng như hầu hết các đồi miền trung hay
bắc xen trên bãi cỏ đó là các bụi cây rừng cao quá bụng. Đồi này nằm ở chân núi
Kỳ Cấp thuộc Lục Châu hay còn được gọi là Lam Giang. Binh sĩ được nghỉ một thêm
hơn một canh giờ. Hừng sáng, tướng sĩ cùng được ăn khoai lang hay bắp luộc để
có thêm năng lượng trong thời gian sắp tới. Binh ta lại đến gần trại giặc hơn,
chỉ còn khoảng hơn nửa dặm[1] vì
bây giờ ta đã có bàn chông nên không sợ địch tấn công. Nếu chúng tấn công ta
thì thật là đại phước, đó chính là mục tiêu của ta.
Tối hôm trước,
đạo kị binh binh Mông Cổ biết tin quân ta xuất hiện, nhưng chúng không xuất
quân vì muốn ta tới tấn công chúng để chúng có lợi địa. Nếu binh Mông Cổ tấn
công nơi ta đóng quân thì ta lại có địa lợi và họ chưa nắm vững tình thế. Hơn nữa trời tối cũng chẳng mấy tốt cho kị
binh của họ. Dù sao đi nữa, quân binh Mông Cổ phải luôn luôn ở trong tình trạng
ứng chiến.[2]
Quân ta quăng các bàn chông ra, lớp trong, lớp
ngoài, theo ý Quân Sư Vũ, rồi nối hai tâm của hai cái bàn chông thành một cặp,
cách nhau khoảng hơn sải tay. Trong khi ấy, đội vác luồng đào lỗ to khoảng hơn
một gang tay sâu độ 5, 6 gang nằm nghiêng khoảng 45 độ đối với mặt đất. Khi đào
xong, họ chôn gốc cây luồng xuống đất, mà mặt bị vát hướng vào trại lính Mông
và lèn thật chặt. Đội này lại đóng cọc nhọn ngay bên dưới chỏ6 bị vát, rồi lấy
sợi chão ngắn nối ngọn cây luồng với cọc bên dưới. Chiều dài dây ngắn này phải
vừa đủ căng. Bên trên gốc gây, tiểu đội lính này được lệnh kiêng tảng đá lớn để
lên trên.
Khi công việc
này xong, Tướng Nguyễn cho đạo quân dùng nỏ, ra phía tước hàng chông, tấn công
đối phương; những ngừơi có sức khỏe, nỏ mạnh dùng tên lửa bắn vào lều giặc. Đa
số tên này rơi bên ngoài trại giặc.
[1] Dặm
Trung Quốc = nửa dặm Âu Châu. Tính ra khoảng 400 m.
[2]
Chuyện này thực sự cũng đã xẩy ra, khi quân Mông bị tấn công ban đêm thường
chịu tổn thất mà không đám phản công mạnh. Quận công Kálmán và tổng giám mục
Ugrin Csák đánh quân Mông trên cầu sông Sajó lúc nửa đêm, như chúng tôi đã thuật ở chương 04.
No comments:
Post a Comment