CHƯƠNG CUỐI-
TRANH LUẬN (TT)
Tối hôm trước,
đạo kị binh binh Mông Cổ biết tin quân ta xuất hiện, nhưng chúng không xuất
quân vì muốn ta tới tấn công chúng để chúng có lợi địa. Nếu binh Mông Cổ tấn
công nơi ta đóng quân thì ta lại có địa lợi và họ chưa nắm vững tình thế. Hơn nữa trời tối cũng chẳng mấy tốt cho kị
binh của họ. Dù sao đi nữa, quân binh Mông Cổ phải luôn luôn ở trong tình trạng
ứng chiến.[1]
Quân ta quăng các bàn chông ra, lớp trong, lớp
ngoài, theo ý Quân Sư Vũ, rồi nối hai tâm của hai cái bàn chông thành một cặp,
cách nhau khoảng hơn sải tay. Trong khi ấy, đội vác luồng đào lỗ to khoảng hơn
một gang tay sâu độ 5, 6 gang nằm nghiêng khoảng 45 độ đối với mặt đất. Khi đào
xong, họ chôn gốc cây luồng xuống đất, mà mặt bị vát hướng vào trại lính Mông
và lèn thật chặt. Đội này lại đóng cọc nhọn ngay bên dưới chỏ6 bị vát, rồi lấy
sợi chão ngắn nối ngọn cây luồng với cọc bên dưới. Chiều dài dây ngắn này phải
vừa đủ căng. Bên trên gốc gây, tiểu đội lính này được lệnh kiêng tảng đá lớn để
lên trên.
Khi công việc
này xong, Tướng Nguyễn cho đạo quân dùng nỏ, ra phía tước hàng chông, tấn công
đối phương; những ngừơi có sức khỏe, nỏ mạnh dùng tên lửa bắn vào lều giặc. Đa
số tên này rơi bên ngoài trại giặc.
Đội phụ trách
luồng lấy làm công việc sau: một người lấy vải rách cuộn ngoài các cục đá to
như trái cam lớn trộn chất dẫn hỏa. Sáu ngừơi còn lại kéo dây chão dài làm cây
luồng uốn cong xuống. Người cầm đá cuộn vải cho vào phần vạt ở ngọn rồi đốt
lửa. Sáu ngừơi kia buông dây; cây luồng bật đi, và khi cây bật đi và vừa đúng
dộ căng dây ngắn thì dừng lại để cho cục đá lửa bay về trại giặc. Vì luồng
không quá non để tránh thân bị oằn và khong quá già để không bị gãy. Loại súng
này có khả năng bắn xa hơn cung nỏ nhiều, nhưng không chính xác. Tuy nhiên nó
cũng đủ vào sâu trại giặc làm một vài lều trúng lửa bốc cháy. Vì đây là súng dã
chiến nên chỉ dùng vài ngày là vứt đi.
Ngược lại lính
Nguyên cũng bắn trả lung tung, nhưng tên chúng chẳng đến ta. Một điểm khó cho
chúng là đội quân này toàn là kị binh có mục đích ứng chiến mau lẹ nên không có
súng bắn đá catapult.
Cùng lúc ấy, đội
mang thương lấy các dây còn lại nối hai bụi cây rừng với cao từ vế đến bụng.
Nếu chỉ một cây cao quá bụng thì thân cây chỉ to bằng ngón tay cái, nhưng ta
không phải nối một cây với một cây mà nối một bụi với một bụi gồm cả tá cây với
nhau. Cách nối cây đã được dạy là xoắn các cây làm chúng bị dập đi, rồi kết với
nhau. Khi cây bị dập thì chúng trở nên rất dai. Đó là cách của người đi rừng,
mà Quân Sư Vũ đã có kinh nghiệm. Bây giờ, ta lại có thêm 5000 sợi gây thừng
chắc chắn giăng như mắc cửi, xen lẫn với các bàn chông. Sau đó, đội mang trường
thương được nghỉ ngơi.
Hơn một canh giờ
sau, lại thay phiên. Đội mang thương ra dùng nỏ, đội dùng nỏ vào cầm thương
nghỉ ngơi. Vì trời còn tối nên giặc không dám xông ra vì sợ phục binh, nhưng
không đựơc nghỉ ngơi thoải mái, vì chỉ sợ bị tràn ngập. Với chiến pháp này binh
lính ta được ngủ ngáy, nghỉ ngơi, trong lúc địch tất cả ở trong tình trạng ứng
chiến liên tiếp, phải lo chữa cháy nhiều nơi, nên bị mệt mỏi về cả thể xác lẫn
tinh thần hơn.
Đến gần sáng
Tướng Nguyễn Chế Nghĩa cho đội kị binh ra tấn công.
Một lúc sau, mặt
trời nhô lên cao, tướng giặc bây giờ thấy rõ tình hình. Từ hướng chúng nhìn tới
chỉ thấy lính bộ của ta và lèo tèo ít kị binh, và chẳng thấy đồn lũy gì. Không
những thế chúng thấy người Đại Việt nhỏ, ngựa Đại Việt bé hơn ngựa họ, đâm ra
kinh thường[2]. Tướng
Nguyên thấy nếu không phá được đạo quân ta, chúng sẽ rắc rối khi có lệnh đánh
bọc hậu của Thoát Hoan. Một điều làm tướng Nguyên Mông e dè là sợ có phục binh
đàng sau đạo quân mà chúng thấy. Hắn cho thám mã ra cửa sau đi điều tra. Sau
suốt ngày, thám mã trở về báo tin không thấy gì khả nghi. Tướng Nguyên chuẩn bị
cho xuất quân và một trong các mục tiêu chính là phá hủy súng bắn đá của ta.
Nhưng khổ nỗi súng này đặt trong trận thế, nên muốn phá chúng phải vào cặm bẫy
ta. Hắn nghĩ quân kị binh của hắn sẽ tiêu diệt đạo quân ta, một cách dễ dàng
với chiến thuật volley ball. Nhưng hắn quên một điều đã hơn một ngày một đêm
binh sĩ hắn không được nghỉ ngơi bao nhiêu. Trái lại quân ta đã ăn uống nghỉ
ngơi. Thật ra quân ta đến đánh quân Mông, nhưng ngược lại bây giờ ta tạo ra thế
quân Mông đến đánh ta. Ấy là một điều trong binh pháp Tôn Tử đã viết trước đây,
nay xin nhắc lại:“Phàm kẻ đến chiến
trường trước để đợi địch thì nhàn nhã, đến chiến trường sau mà vội vã lao vào
chiến đấu thì vất vả. Cho nên, người thiện chiến là người biết làm cho cho địch
phải đến đánh mình chứ không đến đánh kẻ địch”.
Sáng hôm sau nữa,
quân Mông Cổ chia làm ba, một phần lớn ra trực diện, còn hai phần ít đi vòng
cửa sau tấn công hai phía hông của ta theo thế gọng kìm. Cộng thêm vào đó, mặt
chính diện tấn công từ phía trước tới, chúng áp dụng chiến thuật tam diện giáp
công. Ngay sau lưng ta là một cánh ruộng sâu. Tướng Nguyên Mông biết rõ điều ấy
và cho là thượng sách. Theo chiến thuật của Mông Cổ đánh dồn ba phía chừa một
lối thoát là tử địa như họ đã từng tiêu diệt quân Hung.
Được xắp xếp
trước, hai toán binh hai đầu khi thấy bóng địch từ xa đã di chuyển bàn chông.
Rút cục địch vẫn bị chướng ngại vật và kị binh không thể tiến nhanh như bình
thường. Đó là một điểm bất lợi cho Mông Cổ, vì đạo quân này chỉ hữu hiệu khi có
thể di chuyển nhanh để người kị mã tấn công đối phương mà không cần điều khiển
ngựa. Như quý độc giả dã từng nghe nhiều, đọc nhiều về chiến thuật chớp nhoáng
của Mông Cổ, họ chỉ có thể thắng địch quân khi di chuyển nhanh như gió. Nhưng
trong hoàn cảnh này họ không thể thi thố chiến pháp ấy. Dù chúng có đánh bọc
hậu cũng bị khó khăn, vì bàn chông di động và các mạng nhện khổng lồ, nếu giặc
ở phía này thì ta sang phía khác.
Lúc đội thứ nhất
của Mông Cổ tràn ra, 100 kị binh của ta tháo chạy vào trận địa, binh ta dẹp lối
cho vào, rồi lấp lại. Trong khi đó đợi toán địch vào thì ta bít phía sau. Rồi
tất cả cùng tấn công. Một toán khác của Mông Cổ thấy vậy phải rút lui, người
dùng thương lăn bàn chông đi tới, để người dùng nỏ tiếp tục tấn công, với mục
đích là chia cắt Mông Cổ làm thành từng toán nhỏ.
Khi một con ngựa
thấy khoảng trống nó sẽ phóng vào giữa, nhưng sợi dây nối giữa hai cái cầu gai
sẽ bị lôi theo, làm hai bàn chông nhập lại phía bụng hay đâm vào sau con ngựa.
Thật ra cái bàn chông không nặng, nhưng vì các mũi nhọn cắm vào đất, nên tạo ra
một lực cản đáng kể, càng kéo thì các mũi càng cắm sâu hơn. Đến khi lực kéo của
ngựa mạnh hơn sức cản thì bàn chông bị bật lên và phóng về phía lực kéo. Tất cả
mũi chông sẽ đâm vào lưng người và ngựa. Ngựa phóng càng nhanh thì sức đâm càng
mạnh; đây là thế: “gậy ông đập lưng ông”. Một điểm hay nữa là sau khi đâm bị
thương địch quân, bàn công rơi xuống đất lại sẵn sàng làm nhiệm vụ của nó chứ
không cần ai sắp xếp.
Trong khi đó
toán Mông Cổ thứ hai và thứ ba tấn công vào hông ta cũng gặp khó khăn. Chúng ta
lui vào phía sau các bàn chông thủ và tiếp tục bắn tới. Một số kị binh Mông Cổ
xông vào nên rơi vào trận thế và vướng cạm bẫy ta. Ngựa không tiến nhanh được
là vì bị chông đâm hay dây chặn. Với cách thiết kế này, bàn chông đâm ngay vào
ngực, đùi và bụng ngựa. Còn người kị mã cũng phải lo việc tránh các mũi chông
nhọn hoắt sẵn sàng đâm vào chân họ. Nếu ngựa nhảy dựng hai vó trước, khi hạ
xuống chúng có thể bị đâm thủng bụng bởi các bàn chông.
Nhiều con ngựa
khác đang phi nước đại, thấy dây căng ngang nên phóng qua, nhưng chân trước mới
chạm đất thì đâm ngay vào bàn chông. Phản ứng con ngựa là trì hai chân trứơc
xuống để hãm tốc độ. Còn người kị mã vô phúc lúc ấy đang dùng cả hai tay dương
cung, không phản ứng kịp và với động năng sẵn có, nên theo đà lao vào cái bàn
chông quái dị kia. Người hắn kể như là được đóng đến một 6, 7 mũi tên, nếu may
mắn không bị cọc lớn đâm thủng bụng. Có nhiều khi cả người lẫn ngựa cùng đâm
vào bàn chông.
Ngay lúc đó,
nhiều người kị mã khác chỉ lo điều khiển ngựa, làm gì có thì giờ để tấn công
đối phương. Chúng trở thành bia cho quân ta tập bắn. Một toán Mông Cổ đã sa vào
bẫy, bị bao vây bởi các bàn chông, và lưới thì toán kị binh ta tới tiêu diệt
chúng. Khi thấy chỗ nào quân Mông Cổ hơi thưa ra, lính ta lập tức lăn các trái
cầu gai đó tới phía trứơc và có lúc chúng ta đã bao vây được hay chia cắt toán
lính kị binh kia thành nhiều nhóm nhỏ.
Chắc đến lúc này
lính Tướng Mông Cổ phải sửa Chinh Phụ Ngâm:
“Non Kỳ mộ chỉ
trăng treo. (Kỳ
Cấp)
Bến Cùng gió
thổi đìu hiu mấy gò. (Kỳ Cùng)
Hồn tử sĩ gió ù
ù thổi.
Mặt “Nguyên
Mông” trăng dõi dõi soi.
“Nguyên Mông” tử
sĩ mấy người?”
Có lẽ rất nhiều
vị đồng ý với tôi trận đánh này mình sẽ thắng.
[1]
Chuyện này thực sự cũng đã xẩy ra, khi quân Mông bị tấn công ban đêm thường
chịu tổn thất mà không đám phản công mạnh. Quận công Kálmán và tổng giám mục
Ugrin Csák đánh quân Mông trên cầu sông Sajó lúc nửa đêm, như chúng tôi đã thuật ở chương 04.
[2] Đây cũng là phần trả lời bạn đọc NguoiConVienXu hỏi
chúng tôi trên diễn đàn ngày February
04, 2009 04:54PM và nguyên văn như sau: “Thưa bác VHKT,
Tôi thấy một chi tiết nhỏ này ma` không thấy
ai nói tới:
Người
lính Việt Nam , cũng như các chiến mã của ta thể lực rất nhỏ, yếu so với quân
ngoại bang va` ngua chiến của họ, trong các cuộc chiến tranh bằng gươm giáo,
cung tên....
Như
thế thì yếu tố nao` đã tạo nên cac' chiến thắng của Dân Tộc?
Phải
chăng, cac' Tướng Súy của ta thời ấy đã lấy mưu trí để chế ngự các khiếm khuyết
kể trên. Vài lời thô thiển mong bác cho lời nghị luận.
Kính
bác.”
No comments:
Post a Comment