Friday, December 7, 2012

Vũng Tàu – nơi đầy kỉ niệm


Bố lấy xe đạp chở vợ tôi cùng hai đứa con tôi là Hi, Mi ra Bãi Sau từ lúc 3 giờ chiều. Sau đó ông quay về nhà cho tôi biết tin tức và địa điểm.

Đúng 6 giờ chiều, tôi sách cái bị cùng vài cái phao câu đến nhà Lộc.

Lộc hỏi:

- Cái hải bàn có lớn không?

- Cũng nhỏ thôi

- Anh cho tôi coi một chút được chứ?

- Được!

Tôi vạch bị cho Lộc nhìn.

Y nói:

- Hải bàn coi ngộ quá há!

Sau đó, hai đứa tôi lững thững đi bộ ra Bãi Sau, và vượt qua đồn công an dễ dàng vì không có đàn bà con nít. Thời gian này Bãi Sau còn rất thưa thớt với một số quán nhỏ xây dựng trước thời 75 để lại. Lúc xây nhà không mấy đẹp đẽ mà lại không tu bổ, sơn phết trong nhiều năm liên tiếp, nên trở thành cũ kỹ hoang tàn. Đến nơi thì trời đã xâm xẩm tối. Tôi thấy Điệp, tay bế cu Mi, cùng cu Hi đang thập thò cạnh một cửa hàng.

Cu Hi thấy tôi kêu:

- Bố!

Điệp bịt miệng nó nói:

- Suỵt! Đừng gọi bố con!

Theo đúng cách tôi đã vạch sẵn, tôi thò tay xách cái giỏ đựng sách vở, quần áo, rồi tiếp tục bước tới. Điệp để tôi đi một quãng khoảng 20 thước mới bế và dẫn con đi theo.

Trời hôm ấy hơi nực, nên trên đường người ta đi hóng mát cũng khá đông, một số đông trong đó là công an, bộ đội. Với sự hiện diện của nhóm người này, tôi thấy thật là bất an trong lòng. Điệp thì run vô cùng, vì chỉ sợ bị công an chặn xét bất ngờ.

Lộc dẫn chúng tôi tiến dần đến bar Hồng Phượng, cạnh chân Núi Nhỏ. Tại đây, tôi thấy hàng trăm công an đi lũ lượt trên đường vì gần đấy là một trung tâm huấn luyện công an. Tôi thấy lo sợ cho Điệp và hai con đi phía sau. Nếu nàng tỏ ra một chút mất bình tĩnh là có thể bị vào tù. Điệp run cầm cập, đi muốn không nổi, nhưng nghĩ tới tương lai con nên cố gắng lết bước theo.

Vừa đi, Lộc vừa nói nhỏ để tôi nghe:

- Mình lên đây, rồi có người chở ghe ra hòn Bà. Ở đó, mình đợi nước êm thì ghe lớn vào đón.

Tôi nghĩ: "Tên này nói có lý lắm. Đây là vùng giáp nước thuyền bè cặp hòn bà rất nguy hiểm, trừ phi lúc nước êm."

Lộc dẫn chúng tôi ngược lại phía trung tâm huấn luyện công an, rồi theo một con đường tắt lên đường dốc cũ, trước mặt cả chục công an. Điều này càng làm cho chúng tôi lúng túng hơn. Con đường dốc ở Núi Nhỏ, ở khúc ấy đã được người Mỹ canh tân, làm một cái dốc mới, thay con đường cũ, mà người Pháp làm, với một lô cốt đã bị bỏ hoang trong nhiều năm, nên cây cối và bụi rậm mọc che kín mặt đường. Tôi dừng lại đợi Điệp và hai con, rồi giúp vợ con bước qua cái đốc đó. Theo con đường bỏ hoang này, Lộc dẫn chúng tôi quay ngược ra phía biển.

Tuy nhiên, khi vào đến con đường bỏ hoang, chúng tôi cũng bớt đi sự lo âu, vì nơi đây tương đối tối tăm, cây cối sầm uất. Những đèn đường chiếu xuống làm chúng tôi thấy công an, nhưng ngược lại họ không thể thấy chúng tôi. Đi được một quãng, chúng tôi tới một chỗ tương đối bằng bặn ít cây.

Lộc nói:

- Ủa sao vậy cà! Thằng hướng đạo nói nó gặp mình ở đây mà bây giờ nó đi đâu? Anh chị ngồi đây chờ tôi một chút. Tôi đi tìm nó nhe!

Tôi để giỏ xuống đất, ôm cu Hi vào lòng, rồi cùng vợ ngồi xuống mặt đường nhựa bỏ hoang chờ đợi, trong khi ấy Lộc rời khỏi nơi đó và biến mất trong rừng cây tối om. Nơi chúng tôi ngồi cạnh một vách núi khá dốc, đầy đá tảng lởm chởm, và bên dưới cách chỗ chúng tôi độ hơn 10 thước là đường chính mà chúng tôi vừa qua, nên công an đi đi lại lại đông như mắc cửi. Còn phía đối diện là rừng cây, lên độ 20 thước bên trên là con đường mới làm, rồi đến rừng cây và tới đỉnh Núi Nhỏ, nơi có pho tượng chúa dang tay.

Khi tôi rời nhà để đến gặp Lộc, cha mẹ tôi đứng nhìn theo cho đến khi tôi khuất bóng sau các nhà hàng xóm. Ông bà dọn cơm ra ăn bữa chiều, nhưng cả hai ông bà không tài nào ăn nổi, trong lòng thấp thỏm cho sự an toàn của con cùng cháu.

Màn đêm từ từ che phủ núi rừng, con đường hẻm trước nhà đã trở thành tối đen như mực. Hai ong bà không ai bảo ai đều ra trước cửa nhà, nhìn về đầu hẻm xem có hình bong con chaú không, nhưng con cháu ông bà không thấy trở về. Cả hai cùng nghĩ có lẽ con cháu đã bình an lên thuyền vượt trùng dương.

Ông bà rủ nhau mang nhang, mõ lên sân thượng, nơi chúng tôi ngủ hàng đêm, tụng kinh cầu cho con cháu trên biển khơi được bình an.

Thursday, December 6, 2012

Vũng Tàu – nơi đầy kỉ niệm.


Tôi đi ngược ra phía phòng thông tin, lấy xe nơi giữ xe. Tôi đạp xe hết tốc lực quay về trường học, và đi tìm tất cả các ngõ hẻm cũng như nhìn lên núi chỗ có thể leo lên, quanh trường. Tuy nhiên tôi không nghĩ con tôi leo lên đó vì rất mỏi chân. Tất cả cố gắng của tôi đề trở thành vô vọng.

Bất chợt tôi nghe tiếng khóc la ở phía trường học. Tôi vội đạp xe lại trường, thấy một người đàn bà đang bu lu bù loa khóc lóc.

Tôi hỏi:

- Chị làm gì ở đây?

- Tui tìm con tui. Nó lạc mất rồi!

- Tôi cũng đang tìm con tôi. Con chị mấy tuổi?

- Nó hơn bốn tuổi rưỡi rồi.

Tôi nghĩ: "Thằng này lớn hơn cu Hi vài tháng, vậy có thể nó dẫn cu Hi đi đâu đó."

- Nhà chị ở gần đây không?

Bà ta chỉ tay về phía cuối đường:

- Ở cuối hẻm đó.

Tôi nghĩ: "Chị này là cư dân nơi đây, nên chị ta biết hang cùng ngõ hẻm của vùng này. Giao chị ta và gia đình tìm quanh đây, còn mình ra các ao hồ gần Bãi Sau tìm hai đứa trẻ."

Tôi nói:

- Vậy chị về nhà nói người nhà đi kiếm hai thằng bé ở các hẻm, vườn tược quanh đây. Con tôi nhỏ hơn con chị một chút; nó mặc một chiếc áo mầu mỡ gà. Tôi sẽ đi về phía Bãi Sau, tìm tụi nó ở gần mấy cái hồ. Nếu chị thấy chúng thì cứ đem về nhà, tôi sẽ đón con tôi sau. Còn nếu tôi thấy chúng tôi sẽ đem con chị về nhà chị. Một giờ nữa tôi sẽ quay lại nhà chị.

Chị ta gật đầu.

Chúng tôi phân công nhau đi tìm. Nhìn đồng hồ đã gần 1 giờ trưa, chỉ còn hai giờ nữa là Điệp phải khởi hành. Tôi thấy vô hy vọng.

Tôi đạp xe về phía Bãi Sau; tôi cố sức tìm xem có dấu vết của trẻ con chơi trên bờ hồ không, nhưng chẳng thể nào tìm hết được cái bờ hồ rộng mênh mông ấy. Hỏi thăm các cư dân thì chẳng ai để ý đến chuyện đó, hơn nữa trên quãng đường này rất ít nhà, vì một bên là núi, một bên là hồ. Tìm kiếm khắp nơi cho đến 2 giờ chiều, tôi chán nản đạp xe về nhà chị đó để xem họ có tìm được hai đứa bé không.

Khi đến nơi, tôi nghe tiếng khóc um sùm của cả nhà. Họ cũng đã thất bại.

Tuyệt vọng, tôi đạp xe về nhà, báo tin cho nhà, rồi sẽ xuống đồn công an báo tin và nhờ họ giúp. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng mấy tin tưởng là họ sẽ làm. Giấc mơ tự do tan biến, nhưng quan trọng hơn, tôi mất đứa con. Tôi lại nghĩ: "Hay là có ai bắt cóc hai đứa con nít không? Họ bắt cóc để làm gì? Thời buổi này ai có tiền đi chuộc con nít đâu, còn chính họ cũng chẳng có cơm ăn huống hồ nuôi thêm hai đứa trẻ thơ."

Về đến Bãi Trước, tôi tự nhủ thầm: "Con mình có ra đây chơi không?" Tôi thẳng đường đạp thêm một khúc trước khi trở về nhà. Độ hơn nửa cây số, tôi ứa nước mắt nghĩ: "Nơi đây xa trường mà khó đi, vì đường từ trường đến đây rất phức tạp. Hai đứa bé này phải vượt qua vài con đường ngoắt nghéo, gập ghềnh, nhất là khúc đường Phan Bội Châu, rồi mới tới đây được. Với tuổi này làm sao chúng ra đây? Thôi mình quay về nhà." Đường Phân Bội Câu là khúc nhà của ngư dân Xóm Lưới nghèo nàn. Con đường này vốn dĩ đã tàn tạ từ trước 75, nay lại càng tệ hơn vì chẳng ai tu sửa. Cả Khúc đường dài vài trăm thước toàn là đá cục to như trái cam, tuy rằng hai bên đường đầy rẫy những nhà tôn, nhà lá lụp sụp.

Tôi vòng xe trở lại. Ngay khi tôi đang vòng xe, tôi thấy loáng thoáng một chiếc áo mầu mỡ gà cách tôi độ một trăm thước. Tôi linh cảm có một việc kỳ lạ đâu đây. Ngoái đầu nhìn kỹ lại đó là một đứa bé. Tôi quay xe một lần nữa, tôi đạp xe tới gần. Trời ơi cu Hi! Nó và thằng bạn nó bạn đang đứng ngắm mấy con ốc, con sò ở một quán bán đồ kỷ niệm. Tôi mừng quýnh chạy lại ôm con.

Tôi đem thằng bé trở về nhà nó, làm cả nhà khóc nhiều hơn vì quá mừng. Họ ân cần mời tôi vào nhà để cám ơn, nhưng tôi từ chối, đem con về chuẩn bị giấc mơ.

Wednesday, December 5, 2012

Sáng hôm đó tôi vẫn đưa cu Hi xuống lớp mẫu giáo xóm Lưới đi học, để làm lạc hướng công an. Trường mẫu giáo ở chân Núi Nhỏ, trên đường Đinh Tiên Hoàng, con đường tráng nhựa thứ hai ra Bãi Sau. Con đường này chạy dọc theo chân núi còn bên kia là các đầm sen. Phía hông trường mẫu giáo, là một vách đá dựng đứng cao trên mười thước. Một số cây rừng mọc cheo leo trên vách. Sau lưng trường có vài cái ao bèo, bao bọc bởi nhiều bụi cây. Nếu nhàn du ngắm cảnh thì đây là một bức tranh, nhưng thời gian này tôi không còn chút thì giờ nào để ngắm cái đẹp thiên nhiên đó.


Sáng hôm đó tôi vẫn đưa cu Hi xuống lớp mẫu giáo xóm Lưới đi học, để làm lạc hướng công an. Trường mẫu giáo ở chân Núi Nhỏ, trên đường Đinh Tiên Hoàng, con đường tráng nhựa thứ hai ra Bãi Sau. Con đường này chạy dọc theo chân núi còn bên kia là các đầm sen. Phía hông trường mẫu giáo, là một vách đá dựng đứng cao trên mười thước. Một số cây rừng mọc cheo leo trên vách. Sau lưng trường có vài cái ao bèo, bao bọc bởi nhiều bụi cây. Nếu nhàn du ngắm cảnh thì đây là một bức tranh, nhưng thời gian này tôi không còn chút thì giờ nào để ngắm cái đẹp thiên nhiên đó.

Đến gần trưa, tôi lại trường đón con về như thường lệ, để chuẩn bị ra đi lúc xế chiều.

Khi đến nơi tôi không thấy con chạy ra mừng như mọi ngày. Tôi hơi cảm thấy lạ, đi thẳng vào lớp thì chỉ thấy cô giáo đứng một mình gói ghém học cụ.

Tôi hỏi:

- Cô giáo, cu Hi đâu cô?

Cô ngạc nhiên nhìn tôi:

- Ồ hồi nãy, tôi thấy chú lại đón cháu rồi mà!

Tôi hết hồn, giọng trở nên khẩn trương:

- Tôi đâu tới đây hồi nào?

Cô chạy ra cửa nhìn quanh, mặt mày xanh xám:

- Chết rồi! Nó đi đâu vậy cà? Tui nhớ hồi nãy chú lại kiếm nó mà?

Tôi nóng lắm, nhưng thấy thái độ cô giáo trẻ nên nguôi ngoai. Bề gì thì cu Hi cũng đã lạc, có cự cho lắm cũng uổng công. Vấn đề là phải tìm con thật gấp. Tôi nghĩ tới mấy ao nước gần trường, nên lập tức đến đó. Tôi quan sát trên bờ không thấy dấu vết trẻ con ra đó, vì nhiều nơi là đá núi, nên không thể thấy dấu chân. Muốn chắc ăn, tôi lội xuống ao; cũng may, mấy ao này không sâu lắm. Sau một hồi bì bõm trong mấy ao, tôi không thấy dấu hiệu của một thảm họa, nhưng cũng vô cùng lo sợ, chán nản vì cu Hi cũng chưa thấy đâu hết.
 

TÌM CON

Tôi quay lại trường, thấy cô giáo đang dựa cửa nước mắt vòng quanh. Tôi nhận thấy cô giáo mới trên hai mươi tuổi; tôi nghĩ: "Tuổi cô bé này còn quá trẻ, ăn chưa đủ no; lo chưa đủ tới."

Tôi hỏi:

- Hàng ngày, cu Hi có hay chơi với ai không cô?

Cô gật đầu:

- Dạ có. Một thằng lơn hơn nó chút đỉnh.

Cô biết nhà nó đâu không?

- Dạ không.

Tôi hy vọng cu Hi đi đến nhà thằng bé này chơi. Tuy nhiên, từ trường ra Bãi Sau có nhiều hồ sâu, nếu đi bộ tìm con thì không thể thấy nó trước giờ ấn định cho cuộc vượt biên. Tôi đi thẳng ra chợ lấy xe đạp đi cho việc tìm con nhiều nơi được dễ dàng và nhanh chóng hơn. Từ đấy đến chợ khoảng hai cây số. Tôi phải đi hết tốc lực để đến đó càng sớm càng tốt. Vừa đi tôi vừa ứa nước mắt phần thương con, phần thấy số mệnh bạc bẽo vượt biên tìm tự do không được. Âu cũng là số trời: bắt phong trần phải phong trần.

Khi ra đến chợ thấy vợ đang dọn dẹp đồ đạc chuẩn bị ra về, tôi nói:

- Em bình tĩnh nhe: cu Hi lạc rồi.

Điệp không cầm nổi sự đau đớn hốt hoảng, bật khóc:

- Thật không?

Tôi an ủi:

- Em bình tĩnh về nhà chờ anh. Anh phải lấy xe đi tìm con.

Nàng mếu máo, lấy vé giữ xe trao cho tôi.

Tuesday, December 4, 2012

Vũng Tàu – nơi đầy kỉ niệm.


Tháng 5, năm 1979, tôi bị tù về tội vượt biên. Sau sáu tháng tôi được thả về. Khi về đến nhà lại tính chuỵên vượt biên nữa.


CON ĐƯỜNG BỎ HOANG.

Độ nửa tháng sau, một buổi trưa, Thu (người cọng tác tổ chức vượt biên lần trước. Y cũng bị tù với tôi và mới được thả về) lại tìm tôi và cho tôi biết có một người muốn tìm một hoa tiêu. Tôi nói em dẫn tôi đi giới thiệu với người đó. Thu đưa tôi đi đến một căn nhà nhỏ, nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, ở Xóm Vườn, rất gần ngã tư Nguyễn Trường Tộ. Căn nhà nằm bên tay phải, nếu đi từ thị xã ra Bãi Sau. Nó nhìn giống như một cái quán bán nước cũ hơn là một căn nhà để ở, vách gỗ sơn xanh lá cây, mái tôn. Thu giới thiệu tôi cho một người đàn ông, mặt hơi dài dài, cao cỡ một mét bẩy, da hơi đen, trên ba mươi tuổi nói tiếng Nam.

Anh chàng này có tên là Lộc và tự nhận là một cựu trung sĩ cảnh sát, trước 75 làm việc ở Cần Giờ. Anh ta cho tôi biết anh đang tổ chức một chuyến đi với chiếc ghe 6 lốc, xuất phát tại Cần Giờ và sẽ bốc người ở một điểm gần Bãi Sau. Nhóm anh ta cần hợp tác với một người rành hải hành, có sẵn hải bàn và hải đồ. Điều khiện là anh ta cho trọn gia đình hoa tiêu ra đi trong chuyến đó. Như vậy tôi có đầy đủ điều kiện để hợp tác với anh ta. Tôi mừng thầm, vì nếu tôi đã nhận lời của chủ ghe ở Rạch Dừa thì tôi không có cơ hội đem cả vợ con theo như lần này. Tôi hẹn anh sẽ trả lời, vì cần có thời gian suy nghĩ, nhưng thật ra, tôi về nhà và điều tra thêm thân thế anh này.

Tôi được biết anh này là bạn trai của một cô gái, mà tôi quen lúc mới về Vũng Tầu năm 76. Lúc ấy, cô ta và các chị em cô đều là các thiếu nữ xinh đẹp, ở tại một căn nhà nhỏ trước cửa nhà ông Phạm Kim Ngọc. Nhưng sau đó khu nhà cô bị giải tỏa; nhà cô đã bị công an đuổi đi, nên dọn về ở tạm tại một căn nhà gần Bãi Dứa.

Sau khi biết thật sự về lý lịch của Lộc, tôi tới nhận lời hợp tác.

Tôi hôm ấy, Lộc và tôi ngồi nói chuyện để bàn cách thức hợp tác và ra đi.

Lộc nói:

- Đến tối mốt, anh dẫn chị và hai cháu đến nhà tôi. Tôi sẽ đích thân đưa anh ra bãi đáp, vì anh là một trong những người quan trọng của chuyến đi. Thu sẽ theo cô bồ tôi đi đường khác ra bãi.

Tôi nói:

- Khoảng mấy giờ thì tôi xuống gặp anh?

- Khoảng 6 giờ chiều.

- Sao anh chọn giờ ấy? Thế mấy giờ đổ người?

- 9 giờ!

- Giờ này nguy hiểm quá, vì là giờ mà công an canh phòng cẩn mật nhất.

Lộc cười ngạo nghễ:

- Chính vì lý do đó mà tụi tôi bàn nhau là đánh vào giờ đó.

Tôi nghĩ: "Mỗi người có một sự suy luận khác nhau. Mình có thể không nhìn thấy cái suy nghĩ của người khác. Hơn nữa nó còn tùy thuộc vào địa điểm nơi tổ chức"

- Bãi đáp ở đâu hả anh?

- Đây là chuyện bí mật của tổ chức. Như anh đã tổ chức thì anh biết mà. Nhưng đại lược là từ chân Núi Nhỏ đến gần rừng Chí Linh.

- Vậy đúng 6 giờ chiều ngày mốt tôi sẽ lại gặp anh.

- Anh nhớ mang theo hải đồ, hải bàn lại đây nhe!

Tôi về chuẩn bị hành trang để đợi ngày đi.

Bố tôi hỏi:

- Con đã có kế hoạch để đem vợ con ra bãi đáp chưa?

- Đến hôm ra đi, con nhờ ba lấy xe đạp chở mẹ con cu Hi cùng một giỏ đựng một chục cam và mấy quyển sách toán ra Bãi Sau từ lúc 3 giờ chiều. Mẹ con nó ra đó tắm biển và đợi con lúc chiều tối, còn con ôm một bị đựng đồ hải hành, và một chục hộp sữa, sẽ đến điểm hẹn với Lộc.

Sữa này là để cu Mi và cu Hi uống trên thuyền trong những ngày vượt biên.

Bố tôi gật đầu:

- Đến hôm đó bố sẽ làm theo ý con.

Hình đăng cho độc giả Viện Việt Học.

Tôi đăng hình vẽ về các dụng cụ đánh cá cho
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,50168,page=32
 
 
 

Monday, December 3, 2012

Vũng Tàu – nơi đầy kỉ niệm


Đường về Vũng Tầu từ đây dài khoảng 20 cây số, được xây cất, trang trí, rất đẹp và sạch sẽ. Đường có hai chiều , mỗi chiều có 2 lằn xe chạy và có đường cho xe gắn máy chạy bên trong rào ngăn. Giữa hai đường lên xuống là các lối trồng hoa rất rộng, mầu sắc có nơi trang nhã, có khúc rực rỡ với nhiều loài hoa. Tuy đường có lối riêng cho xe gắn máy, tôi thấy dân ta cứ phong phong chạy giữa đường không có luật lệ gì ráo trọi; chỉ có ít người tuân thủ luật lệ. Trình độ dân trí và tự trọng như vậy làm sao mà đòi dân chủ kiểu Âu Mỹ?
 

Càng đến gần Thành Phố Vũng Tàu thì nhà cửa, khách sạn càng đẹp đẽ, đồ xộ hơn. Hồi 2001, vợ chồng tôi đã quay về đây, nhưng nay nhìn không nhận ra một hình ảnh quen thưộc nào. Chính giữa những ngã tư ngã năm có các bồn binh với tượng đài kỷ niệm. Các tượng đài này chỉ đưa lên các hình ảnh của quân đội Cộng Sản hồi chiến thắng miền nam. Tôi rất tiếc họ không đưa lên một cái gì để hàn gắn tình dân tộc của một quá khứ lầm than.
 

Ngày xưa, tôi ở Vũng Tầu đi Sàigòn rất nhiều vì mở lớp toán lén tại Saigòn trong khoảng 1977-1980. Đường đi ngày ấy cũng như thời trước 75 là phải qua Rạch Dừa, ngã Ba Bến Đình rồi tới Vũng Tầu. Nhưng bây giờ xe chạy một lúc tôi thấy mình trên đường Thùy Vân và ngay cạnh Bãi Sau, nay cũng có tên bãi Thùy Vân.
 

Chẳng bao lâu thì đi qua ngã Hoàng Hoa Thám-Thùy Vân. Nơi đây, ngày 10 tháng 9 năm 1981, tôi đã đưa một nhóm 20 người gồm cả vợ, hai con tôi và cậu cháu Lê Minh Dương lên một chiếc thuyền nhỏ xíu vượt biên. Tất cả nhóm đã nhóm tụ tập lại từ lúc 4 giờ chiều. Nơi đây cách đồn công an Thắng Tam- trên đường Hoàng Hoa Thám- có 200m. Sau khi chịu nhiều điều không may, toát mồ hôi và tị nữa vào đồn công an ngồi, chúng tôi đã thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc.

Chung quanh đây, các khách sạn to lớn, các quán ăn sang trọng mọc lên nhan nhản. Xe chạy lại chân núi nhỏ thì ngừng. Ngày xưa thời 1955-1960, đây có một cái dốc nối liền đường Bãi Sau (nay là Thùy Vân) với mũi Eo Quắn (mũi Nghinh Phong) do người Pháp làm trừ trước lâu rồi. Giữa dốc này có một cái đồn canh nhỏ xây bằng đá. Đến lúc người Mỹ sang tham chiến, họ bỏ con đường này; làm một con đường lớn hơn ở trên cao. Con đường này lại bị chính quyền Việt Nam hiện tại hủy để làm con đường chạy rất to lớn và ở khoảng vị trí mà con đường người Pháp làm.

Ở đây nhìn đến hòn Bà rất rõ.

Tôi chợt nhớ tới một câu chuyện vượt biên của gia đình tôi. Phần này được trích từ quyển Hải Thần Thịnh Nộ, một câu chuyện được báo Người Việt phát giải cao nhất cho thể loại không hạn định số chữ, năm 2005, trong cuộc thi viết cho 30 năm tỵ nạn. Tuy rằng lúc tôi nộp bàn thảo dự thi, quyển truyện vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, nên tôi vội vã thêm phần kết luận để người đọc hiểu được câu truyện.

Xin lỗi


Xin lỗi các độc giả viện Việt Học. Tôi mất cái hình vẽ về các dụng cụ đánh cá nên không dang hình được. Ngày Mai tôi sẽ đăng.