Lý Bạch
Tiểu sử Lý Bạch
Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý do
thiếu nợ phải trốn ra Tây Vực, kết duyên cùng một phụ
nữ Tây Vực. Sau đó, họ quay về Trung
Quốc. Đến
năm 701, hai người
sinh ra cậu con trai. Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà thân mẫu nằm mộng thấy sao Thái Bạch nên đặt tên ông
là Bạch.
Theo chính ông thì ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán và là cháu chín đời của Vũ Chiêu Vương Lý Cao nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Sau này ông tự đặt hiệu là Thái Bạch, rồi Tràng Canh, vì Tràng Canh là một tên
khác của ngôi sao ấy; ngoài ra do sinh ở làng Thanh Liên nên cũng lấy hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Giới thi nhân bấy
giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là: Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên. Về sau này Đỗ Phủ, thua ông 11 tuổi, được
tôn làm Thi Thánh (Thơ Thánh) thì Lý Bạch được tôn làm Thi Tiên (Thơ Tiên).
Lý Bạch ở Lũng Tây, Cam Túc suốt thời thơ ấu, được mẹ dạy
cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông
thạo và thích làm thơ.
Năm 742, ông đến Cối Kê, cùng đạo sĩ Ngô Quân ở
ẩn tại Thiểm Trung. Sau đó cùng bạn về Trường An, ở đây ông gặp thái
tử tân khách Hạ Tri Chương, trở nên đôi bạn rượu-thơ thân thiết.
Sau đó, Lý Bạch đến quan trường dự thí. Đề thi năm ấy là: "Không
mong văn chương hơn thiên hạ, chỉ cần văn chương đúng ý quan chấm thi".
Khoa thi vừa xong, Hạ Tri Chương sợ Lý Bạch không có tiền đút lót sẽ bị đánh
rớt, liền gửi mộ lá thư giới thiệu cho giám khảo.
Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý
Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Lúc
ông lên 10
tuổi, gia đình chuyển Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê
học kiếm thuật, và tỏ ra là người rất
trọng nghĩa hiệp. Ngay khi ấy tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt. Khi đến 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên. Nhưng ông không ưa thích lối sống và lên núi Đái Thiên Sơn học thi văn
cũng như học
đạo sống cuộc đời ẩn sĩ.
Theo sách viết lại câu
chuyện của Lý Bạch học thi văn ở Hoa Sơn như sau:
Thủa đó, Lý Bạch theo học
với thầy tại núi Hoa Sơn, nhưng học hành hay quên, thi cử chẳng ra gì, nên nản
chí bỏ ra về. Trên đường về nhà, ông gặp một bà già ngồi mài một thanh sắt to
như cánh tay một cách rất chăm chỉ, chẳng để ý đến ai. Ông làm lạ hỏi: "Bà
cụ làm gì mà mài thanh sắt to thế?" Bà vừa mài vừa trả lời: "Tôi mài
cây kim để vá quần áo." Ông hỏi: "Thanh sắt to như vậy làm sao thành
được cây kim?" Bà già nói: "Mài một ngày không thành thì mài hai
ngày. Mài một năm chưa xong, thì mài hai năm. Mài riết thì một ngày sẽ thành
theo ý muốn." Lý Bạch hội ý, sau này học hành thành danh
Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng
hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang
Tây, Tràng An. Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm
lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến Vân Mộng kết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Khi ông 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình, được mời đi làm quan, nhưng ông không nhận.
Năm 735, ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua
nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời - rủ
lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta
gọi là "Trúc Khê lục dật".
Thư đến hai quan giám khảo là Cao Lực Sĩ và Dương Quốc Trung, hai người này vốn không thích Hạ
Tri Chương, nên càng ghét Lý Bạch. Lúc chấm thi, thấy hai chữ Lý Bạch, Dương
Quốc Trung liền phê: "Người này dốt quá chỉ đáng mài mực cho bọn sĩ tử
thôi". Cao Lực Sĩ phê hùa theo: "Có lẽ chưa đáng mài mực, chỉ đáng
cởi giày cho họ thôi". Rồi đánh hỏng vào bài thi của ông.
Thi rớt kỳ ấy, Lý Bạch nghe lời Hạ Tri Chương ở lại chơi ít tháng, đợi Hạ
tiến cử. Một hôm sứ nước Phiên dâng thư cho vua Huyền Tôn bằng tiếng Phiên, cả triều không ai đọc được. Vua vừa
tức giận vừa hổ thẹn, hẹn sứ giả 6 ngày sẽ trả lời thư. Hạ Tri Chương kể chuyện ấy cho Lý Bạch nghe. Vì mẹ Lý Bạch là người Phiên và đã từng dạy ông chữ Phiên, ông bảo
sẽ giúp. Ngày hôm sau được vua Đường vời vào triều. Lý Bạch không
chịu vào, vua liền phong cho chức Học vị tiến sĩ, ông mới mặc áo, đội mão bước
vào. Cầm thư Phiên, Lý đọc vanh vách, vua từ đó rất thích ông, không ngờ lại có
người thông tuệ như vậy, liền thăng chức cho ông làm Hàn Lâm học sĩ.
Tiếp trang 49: Đến khi Vua sai viết thư trả lời bằng tiếng Phiên,
Lý Bạch đang say rượu, mặt đỏ, bước loạng quạng đến Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi
ngoắc Dương Quốc Trung lại mài mực ông mới chịu viết. Hai người này đành phải miễn cưỡng làm theo.
Từ đó, Đường Minh Hoàng rất thích ông, thường vời vào điện Kim Loan giao việc thảo thư từ, sau được
phong làm Hàn Lâm, chuyên giữ việc mật. Một hôm nọ, lúc hoa nở đẹp, vua Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi ra ngắm hoa, sai
nhạc đội ca hát. Lần này vua muốn có lời ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý Phi,
liền vời Lý Bạch đương say rượu vào đặt cho. Lý Bạch đang say viết liền 3 bài Thanh Bình điệu. Vua và Quý Phi rất thích.Ông được vua Đường và Dương Quý Phi yêu thích vô cùng. Tuy nhiên, rất không may cho ông vì Dương Quý Phi là em gái của Dương Quốc Trung.
Sau này Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, những người từng bị Lý Bạch làm nhục
gièm pha ông về bài Thanh Bình Điệu, bài này có đoạn:
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang
Hai người cho là Lý Bạch sánh ngang Quý Phi với Triệu Phi Yến đời Hán. Lúc ấy nàng Ban Tiệp Dư đã từng hầu vua Hán. Sau này, Triệu Phi Yến gièm pha, nên
bị thất sủng. Dương Quý Phi từ đó không ưa Lý Bạch, lại thêm Trương Ký ganh ghét gièm pha. Đến năm 745, vì ông gàn dở bê bối, say
xỉn suốt ngày, và sự dèm pha từ Dương Quý Phi và
một số luôn
luôn chỉ trích làm Đường Minh Hoàng khó xử. Lý Bạch nhận thấy sự đó, nên từ dã vua Đường. Vua rất buồn, nhưng cũng chiều theo, lại tặng
thêm rất nhiều vàng nhưng thi nhân không nhận, cuối cùng trao cho ông quyền
uống rượu miễn phí tại bất cứ quán rượu nào đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố
thanh toán.
Trong 10 năm kể từ lúc rời cung, Lý Bạch tha hồ uống rượu và đi chơi, ông
từng qua Triệu, Nguỵ, Tề, Tần,
Lương, Tống, các vùng Bân, Kỳ, Thương, Ư, Lạc
Dương,
các sông
Hoài, sông Tứ... Do đi quá nhiều nên ông cũng quen biết và thân thiết
với rất nhiều, trong đó có Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích...
Năm 755, ông đến Tuyên Thành. Tháng 11 năm này có
loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch liền về Lư Sơn, ở ẩn tại Bình phong điệp. Năm ông 56 tuổi, tiết độ sứ Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời ông về
phủ. Lý Bạch đành phải đi theo. Đến khi Lân làm phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn
nhưng không thoát, lúc sắp bị tử hình có Tuyên Uý đại sứ Thôi Chi Hoán với ngự
sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi. Sang năm 757 bị triều đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch
cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải oan, ông được giảm
xuống tội đi đày. Vì vậy ta được xem
nhiều bài thơ của ông tả lại cảnh tù đầy của ông.
Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được tha, liền đi xuống phía đông đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du
đây đó. Thời kỳ sau của Lý Bạch ít được
chú ý, đến khi Đường Đại Tông - một người yêu thơ Lý Bạch - lên ngôi thì ông đã
không còn nữa rồi. Có người bảo ông chết do bệnh, nhưng trong dân gian còn lưu
truyền một chuyện đẹp đẽ về cái chết của Lý Bạch:
Năm 762, trong một đêm rằm,Thái
Bạch lại sông Thái Trạch, huyện Đang Đồ ngắm cảnh uống rượu.. Lý Bạch đang say túy lúy trên bờ sông, thấy trăng in đáy nước đẹp quá, liền nhảy
xuống hớt mặt trăng mà chết đuối. Nơi đó có một cái
đài, người sau đặt tên là Tróc Nguyệt Đài (Đài bắt trăng). Chuyện này được Đỗ Phủ ghi lại.
贈汪倫
Tặng Uông Luân
李白乘舟將欲行,
忽聞岸上踏歌聲。
桃花潭水深千尺,
Bất cập Uông Luân tống ngã[6]
thành.
李白 Lý Bạch
Lý Bạch ngồi thuyền sắp dạo chơi.
Bỗng nghe trên lộ hát vang trời.
Đào Hoa đầm ấy sâu muôn trượng.
Chẳng ví Uông Luân tiễn tớ rời.
VHKT- 2000
Lý Bạch lên thuyền đi chơi.
Bỗng nghe trên lộ vang trời tiếng ca.
Đào Hoa đầm nước sâu xa.
Uông Luân tiến tớ, tình ta hơn nhiều.
VHKT- 2000
No comments:
Post a Comment