I- U-2 DRAGON LADY (Rồng Cái).
Hoa Kỳ biết rằng kể từ năm 1940, Liên Xô đã cho phát triển các máy bay
mém bom chiến lược tầm xa để cân bằng với họ. Sau thế chiến thứ II, Hoa kỳ rất
băn khoăn về con số các máy bay này như:
Tupolev Tu-16, Tupolev Tu-22…
loại mà có khả năng tấn công ven biên lục địa Mỹ. Nhất là Liên Xô đã có bom
nguyên tử vào năm 1949 thì đây là một hiểm họa cho Mỹ.
Ngày 15 tháng 10 năm 1954, tuần báo hàng
không Aviation Week loan tin pháo đài bay Liên Xô có khả năng chở bom nguyên tử
tấn công lục địa Mỹ. Đó là loại mà người Mỹ cho tên Myasishchev M-4 Binson. Thêm
vào đó, tháng 7, 1955 một cuộc trình diễn ở căn cứ không quân Tushino, 10 chiếc
phóng pháo chiến lược Bison đã bay qua khán đài chính, rồi biến mất ở chân
trời. Một thời gian sau, 8 chiếc khác bay qua, rồi thêm 10 chiếc nữa. Như vậy
nguyên cuộc biểu diễn đã có 28 chiếc Binson. Báo chí tây phương ước đoán Liên
Xo có khoảng 800 cái. Nhiều nguồn tin gián điệp cho biết đầu thập niên 50 thì
số máy bay trên của Liên Xô sẽ gia tăng làm khoảng cách số lượng phi cơ chiến
lược gần hơn và đến giữa thập niên 60 thì con số này sẽ vượt qua số máy bay
chiến lược Hoa Kỳ. Một điều mà Hoa Kỳ không chấp nhận. Nhưng các nguồn đều mơ
hồ, không đưa ra các chứng cớ cụ thể.
Làm sao để có chứng cớ cụ thể. Vậy phải có
các bức ảnh chụp được tất cả các căn cứ không quân Liên Xô trên tất cả các nước
Cộng Sản. Với kỹ thuật ngày ấy, Mỹ biết rằng nếu có một máy bay bay cao đến
70000 ft (21km) thì sẽ thoát khỏi tầm hoạt động của các chiến đấu cơ, hỏa tiễn
và ngay cả radar. Một khó khăn là với các phi cơ trinh sát hiện có, được biến đổi từ các chiến đấu cơ, oanh tạc cơ đều không thể làm nhiệm vụ do thám chiến
lược.
Muốn bay cao đến cao độ ấy thì phi cơ phải
thật nhẹ,độ nâng của cánh phải thật lớn. Muốn có độ nâng lớn thì cánh phải to
và vì vậy phi cơ sẽ nặng. Ôi! Đó là cả các mâu thuẫn. Không Lực Hoa Kỳ tìm đến Kỹ
Sư thiết kế tài ba Clarence Kelly Johnson và nhóm Skunk Works của hãng Lockheed. Kelly Johnson đã thiết kế chiếc U-2,
với biệt danh là Dragon Lady (Rồng Cái) một máy bay do thám chiến lược dùng cho
mọi điều kiện thời tiết.
Để đạt được các điều kiện phi cơ phải nhẹ,
nhóm thiết kế đã phải hủy bỏ bộ đáp thông thường gồm ba bộ bánh đáp đặt theo
hình tam giác. Thường thường một chân đáp ỏ mũi và hai bộ châp đáp ở hai bên
cánh làm máy bay thăng bằng khi cất cánh khi đáp và khi đậu. Thay vào đó họ
dùng một hệ thống đáp được gọi là dolly. Khi máy bay cất cánh thì có một bộ
chân giữa ở mũi, và hai bánh xe như bánh xe đạp được gọi là "pogos" ở hai
cuối cánh. Lúc máy bay rời khỏi phi đạo, hai bánh xe bên đều tự động rơi ra
khỏi máy bay vì đây chỉ là hai bánh gắn tạm thời lúc phi cơ sắp cất cánh.
U-2 & pogos
Lúc máy bay đáp sẽ chẳng có bánh xe hai bên và
nó trượt trên phi đạo. Một vấn đề khác là vì cánh quá lớn nên phi cơ rất khó
khăn để đáp. Lúc phi cơ sắp đáp, một hiện tượng gọi là “ground effect”. Đó là
sự dồn nén không khí giữa cánh phi cơ và mặt đất làm sức đẩy vào cánh phi cơ
mạnh hơn sức nặng của cả phi cơ làm nó không thể đáp xuống phi đạo. Muốn tránh
việc này người ta phải cho một xe hơi chạy đuổi theo để làm giảm sức ép trên,
trợ giúp cho phi cơ hạ cánh.
Xe hơi đuổi theo khi đáp
Để làm tăng độ nâng các kỹ sư đã thiết kế một
bộ cánh thất lớn như cánh diều. Thân phi cơ thì Kelly Johnson dùng thân chiếc
phi cơ lừng danh mà ông đã thiết kế trước kia: F104 Starfighter.
F104 Starfighter
Riêng về động cơ, nhóm kỹ sư dùng động cơ J57
turbojet của Pratt & Whitney, sau dùng động cơ mạnh hơn là J75. Và cuối
cùng U-2 được gắn động cơ thật mạnh của General Electric. Đó là động cơ F118
turbofan.
Với các điều kiện trên thì máy bay gặp một
trở ngại ở cao độ vừa kể là có khi máy bay có tình trạng bất quân bằng vận tốc khoảng 10 knots/h (12mph hay 19km/h). Ở vận
tốc này sinh ra hiện tượng giảm cao độ. Vì hiện tượng này làm U-2 dễ bị phát
hiện và đồng thời có thể làm sườn phi cơ bị quá sức chịu đựng (over stress). Và
như vậy thân phi cơ có thể bị gãy nát.
Động J75 của U2 bị bắn rơi trên
dất Cuba
Một điểm cần phải nói tới là ở cao độ 70000
ft, các phi công phải mặc một bộ đồ tương tự như các phi hành gia không gian.
Vì ở cao độ này không còn dưỡng khí và áp xuất.
Tuy nhiên, khi nhóm kỹ sư này trình bày về
khái niệm thiết kế (Design Proposal) thì Không Lực Hoa Kỳ (USAF) bác bỏ. Nhưng
thiết kế này đã đập vào mắt các chuyên viên dân sự, đạc biệt là Edwin Land, cha
đẻ ngành chụp hình do thám. Ông này đem thiết kế trình bày cho Giám Đốc CIA,
Allen Dulles.
Tổng thống Mỹ Eisenhower, người đã từng là tổng tư lệnh liên quân Đồng Minh, giải phóng Âu Châu, sau
khi nghe tường trình của Allen Dulles- Giám Đốc cơ quan tinh báo CIA đã cấp 22
triệu rưỡi đô và bật đèn xanh cho Kỹ Sư thiết kế Kelly Johnson và nhóm Skunk
Works của hãng Lockheed (Burbank –
California) sản xuất 20 chiếc máy bay này. Chiếc này bay cao đến 70000 ft và
hỏa lực phòng không của Liên Xô không có khả năng bắn hạ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1955, chiếc này được thử tại
hồ nước mặn Groom Lake thuộc tiểu bang Nevada, và cho một kết quả rất tốt.
Năm 1957 thì U-2 được đem vào phục vụ, chụp
hình hết các căn cứ không quân Liên Xô. Kết quả Mỹ thấy các con số máy bay oanh
tạc chiến lược của đối phương đã được
phóng đại. Nếu không rõ thì chắc Mỹ đã phải đánh đòn phủ đầu oanh tạc các căn
cứ không quân Liên Xô trên khắp Đông Âu, cùng lãnh thổ Liên Xô. Như vậy chắc
thế giới đã lâm vào thế chiến thứ III mà vũ khí chính là nguyên tử.
Liên Xô, cũng nhận ra yếu điểm là
Mỹ đã cho máy bay thám sát các nước Ba Lan, Tiệp, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi và
chính ngay nước họ. Họ phải nghĩ ra cách nào để triệt hạ chiếc máy bay nguy
hiểm ấy. Họ cho phát triển hỏa tiễn SAM để đối phó.
Ngày 1 tháng 5 năm 1960, họ đã thành công bắn rơi chiếc U-2 với phi công
Gary Power bằng hỏa tiễn SA-2. Tuy nhiên, Mỹ lại phải tái thiết kế làm cho vết
tích (cross section) của U-2 trên radar (radar cross section) nhỏ lại cho làm
việc bắn rơi U-2 trở nên rất khó khăn. Nhưng làm thế nào đi nữa radar cross
section của U-2 vẫn bị giới hạn. Đó kể như là một thất bại. Dù sao đi nữa, U-2
vẫn được tiếp tục sử dụng, trong khi tìm cách giải quyết khác.
Kelly Johnson & Gary Powers đứng trước một chiếc
U-2
Ngày 14 tháng 10-1962, Thiếu tá Richard S Heyser của đơn vị không thám
đóng tại Laughling Air Force Base thuộc Del Rio – Texas lái chiếc U-2 xuất phát
từ Florida đã khám phá ra các hỏa tiễn của Liên Xô trên đất Cuba. Tổng thống Mỹ
là John F Kennedy đã có phản ứng mãnh liệt kiến Liên Xô phải thu hồi các hỏa tiễn
này với điều kiện Mỹ phải triệt hạ các giàn hỏa tiễn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Theo chương
trình trên đài truyền hình Military và History channel, thế giới lúc ấy lại ở
bên bờ một cuộc chiến nguyên tử, nếu U-2 không làm việc hữu hiệu.
Thật ra U-2 có nhiều kiểu chứ không hoàn toàn giống nhau. Mỗi khi Ngũ
Giác Đài nhìn ra một vấn đề hay cần làm một nhiệm vụ đăc biệt nào đó thì các kỹ
sư lại phải sửa đổi (modify) máy bay cũ hay thêm vào một số bộ phận khác.
Mỗi một kiểu như vậy thì người ta thêm vào sau chữ U-2 một hay nhiều chữ
cái như U-2A, U-2C, U-2R, U-2S…
Chiếc đầu tiên là U-2A với động cơ J57-37. Khi thay động cơ J75-P-31 thì
U-2 đổi thành U-2C. Với U-2RT thì có 2 chỗ ngồi dùng để huấn luyện phi công và U-2EPX
là U-2 đùng cho hải quân…
Dân Việt ta chỉ nhìn thấy loại Bà Già L-19 Bird Dog hay trực thăng chứ
không biết U-2 Rồng Cái vẫn thường bay trên đầu. Tuy vậy hai nước Liên Xô và
Trung Quốc là nơi mà Rồng Cái bay qua nhiều nhất.
Cho đến nay, U-2 vẫn còn được dùng trong nhiều lãnh vực: không thám hay
huấn luyện phi hành gia không gian. Chính phủ Mỹ đang có kế hoạch dùng U-2 cho
đến 2015.
No comments:
Post a Comment