(tt)
Gia đình tôi lúc
này, có tôi là lớn nhất vì người chị cả, Cẩm Lý ,
vẫn còn ở ngoài Bắc. Sau tôi là Cẩm Dung (tên chính thức là Thanh Mai) và cậu
em út Võ Thắng.
Trong những ngày
đầu cư ngụ ở đây, chúng tôi làm bạn với hai anh em Thiện, Thanh, con ông Đỗ Đức
Tâm trưởng ty ngư nghiệp Vũng Tàu. Họ cũng cỡ tuổi tôi, và đang theo học bậc
trung học đệ nhất cấp (cấp 2) tại trung học Vũng Tầu.
Để vật lộn với
cuộc sống mới, cha mẹ tôi đã phải đi tìm việc làm ở ngay đó cũng như ở Sàigòn. Hơn
nửa tháng sau, ngày 25 tháng 4 năm đó, bố mẹ tôi phải lên Sàigòn để tìm việc.
Nhưng rủi thay, hai ngày sau (27- 4) những trận đánh đẫm máu giữa lực lượng
Bình Xuyên và phe thủ tướng Diệm đã bộc phát trên các đường phố của thành phố
này.
Hàng ngày, báo
chí đăng tải các tin tức của các trận đánh cùng và hình ảnh chạy loạn của dân
chúng với những cảnh phố phường bốc lửa làm ba anh em chúng tôi lo lắng cho số
phận của bố mẹ vô cùng. Đã vài ngày trôi qua, chúng tôi vẫn không thấy bố mẹ
về. May thay, bố mẹ tôi bình an trở về khi Cẩm Dung bắt đầu thun thít khóc.
Dù rằng niên học
gần hết, bố mẹ tôi cũng quyết định cho tụi tôi tiếp tục việc học hành. Sau một
thời gian dài không đi học, Cẩm Dung học lớp ba trường nữ tiểu học, còn tôi
theo học lớp nhất trường nam tiểu học. Nhưng chỉ một tuần sau, tôi được
"thăng xuống lớp nhì," vì không biết một chữ Pháp nào hết. Trong thời
gian ấy, hệ thống giáo dục của miền Nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề của
nền văn hóa Pháp, vì vậy học sinh lớp ba đã bắt đầu học tiếng Pháp. Tôi thì từ
vùng kháng chiến mới ra Hà Nội và tại đây tôi chỉ biết chẻ củi, giao củi, nên
không biết un (một), deux (hai) là gì thì làm sao viết chính tả (dictation),
đọc bài thuộc lòng (recitation)…
Lớp tôi học là
lớp nhì B mà và thầy giáo của lớp là người ở ngay cạnh nhà tôi: thầy Thân.
Trong lớp, ngoài tôi ra còn Tước là người miền Bắc, và số còn lại toàn là người
miền Nam .
Tình trạng kinh
tế của nhà tôi càng ngày càng bi đát, vì đã mấy tháng bố không tìm ra được việc
gì làm, cả nhà chỉ trông vào việc may thuê của mẹ. Hàng ngày, chúng tôi chỉ ăn
cơm với một món ăn duy nhất: nước mắm hạng dở. Vì ăn nước mắm quá lâu, nên chúng
tôi rất ngán món ăn đó. Khi nhìn mâm cơm, chúng tôi không muốn ăn, nhưng vì đói
quá nên ráng ăn để mà sống.
Một hôm, bố nói
cho chúng tôi biết ông có một món ăn mới. Anh em chúng tôi hồ hởi mừnh thầm.
Quả nhiên, ngày hôm sau, ông bưng cho chúng tôi món ăn mới đó. Món ấy không
phải là nước mắm thường mà là nước mắm chưng (khô quẹt). Để giúp gia đình thêm
món ăn, vào các ngày cuối tuần hay ngày lễ, tôi dắt Cẩm Dung lên núi Lớn và Nhỏ
bẻ măng le về. Công việc này hơi nguy
hiểm cho chúng tôi bọn trẻ con, nhất là con gái như Cẩm Dung, vì trên
hai núi rất hoang dã và ngoài trăn rắn, chúng tôi thường thấy vết lợn lòi (heo
rừng). Nhưng là vì dân đi rừng từ lúc 8 tuổi để chăn trâu bò, nên đối với tôi
chuyện heo rừng không đáng ngại.
Một đêm, tôi
đang ngủ say thì chợt thức giấc vì một tiếng
động.
Vài phút sau,
tôi nghe tiếng mẹ nói:
- Vậy ông tính
sao?
Bố tôi chậm rãi
nói:
- Còn tính sao
bây giờ? Tôi đã chạy đôn, chạy đáo để tìm việc làm mà không được. Hôm trước,
tôi được gọi về trình diện ở phủ Thủ Tướng, vì có việc liên quan đến đơn xin
hồi ngạch của tôi, nhưng cuối cùng bác sĩ Tuyến[1] cũng đã bác đơn ấy viện cớ tôi đã tham gia
cuộc đảo chánh 1945, và dính dấp tới nhà ông Ngô đình Khôi. Nhưng thật ra tôi
chẳng có liên quan gì đến nhà ông ấy cả.
- Chu yện liên quan gì chứ?
Tiếng thở dài
của bố:
- Năm 1945, lúc
đảo chính, tôi được lệnh kiểm kê hoàng cung. Song họ nói tôi kiểm kê nhà ông
Khôi và lấy đi cái xe đạp. Nếu tôi lấy thì bà biết rồi, làm sao giấu được.
- Sao ông không
cãi lại?
- Có chứ! Nhưng
họ cứ gán thì làm sao ra bằng cớ?
Mẹ thở dài:
- Nhà mình hết
tiền rồi, làm sao mà sống bây giờ?
- Hay là mình
mua hai thùng cà rem cây cho thằng Hiệp với con Cẩm Dung đi bán, nếu không,
mình phải bán một cái lục bình cổ lấy tiền mua gạo. Còn biện pháp cuối cùng là
đi vay tiền nặng lãi.
Mẹ tôi ngắt lời:
- Tôi đồng ý cái
ý kiến đó, nhưng ông nhớ mình chỉ con vài cái lục bình cổ la gia tài đấy. Thôi
mình lấy cái bình hoa nhỏ ra lau cho sạch bụi, trước khi đem bán cho nó có giá.
Tôi nghe bố mẹ
lục hục cậy cái thùng gỗ, để lấy cái lục bình ra. Từ ngày chạy từ Bắc vào Nam nhà
tôi chỉ có cái thùng gỗ dài 70 phân, rộng 40 phân, cao cũng cỡ ấy là gia tài. Trong
thùng chứa vài cái lục bình cổ và một số lưỡi cuốc, thuổng mà bố cho là thép
tốt. Những cuốc thuổng này bố đem về từ Phủ Quỳ- Nghệ An đến Lam Sơn- Thanh
Hóa, rồi ra Hà Nội vào đến đây. Có lẽ bố
chuẩn bị cho việc làm nghề nông sau khi định cư ở miền Nam . Bất thình lình, tôi nghe một
tiếng "choang." Chẳng biết người nào đã vô tình làm rơi cái lục bình
xuống đất.
Mẹ cố hạ giọng
thấp than:
- Trời ơi! Cái
bình vỡ mất rồi!
Giọng bố tôi
luyến tiếc:
- Chưa vỡ! Nó
chỉ bị móp thôi! Cái lục bình này làm bằng đồng mà.
- Vậy ông liệu
có thể bán nó được không?
- Để tôi cố gắng
xem sao?
Ngày hôm sau, bố
tôi gói cái lục bình, đem đi bán cho các chủ tiệm hai bên chợ, nhưng ông đã tốn
cả ngày mà chẳng ai mua, và cuối cùng ông đành đem nó trở về.[2]
Chẳng còn cách nào hơn, bố mẹ phải đi vay nặng lãi để có chút tiền mua gạo sống
qua ngày.
Vũng Tàu ngày
nay
***
No comments:
Post a Comment