Một buổi chiều,
tôi đang làm cỏ mấy luống rau trước nhà. Bố mẹ tôi đi đâu cũng nhớ cái gốc nông
dân Tân Phúc- Thanh Hóa, nên hay trồng rau, đậu, cà nghệ, cà tím để ăn. Khi
đang chống cuốc nhổ vài bụi cỏ dại, Cẩm Dung chạy từ trong nhà ra, gọi:
- Anh Hiệp ơi!
Lại coi cái này!
Tôi phủi tay,
chạy lại chỗ Cẩm Dung coi, thấy nó đang cầm một tấm ảnh.
Tôi hỏi:
- Ảnh ai vậy?
Cẩm Dung trả
lời:
- Ảnh gia đình
bác Th.
Chúng tôi không
biết gia đình ông này, mà chỉ nghe qua bố mẹ nói lại rằng ông Th hiện đang làm
tỉnh trưởng một tỉnh ở ngoài Trung. Ông là một bạn thân của bố khi các ông còn
làm việc ở Phan Thiết, Hà Tĩnh, trước năm 1943, và từ sau cuộc cách mạng 1945,
các ông không còn liên lạc được với nhau nữa. Trong hình có ông bà Th và mấy người con.
Cẩm Dung chỉ vào
một cô gái độ 16 tuổi, mái tóc dài đen huyền, gương mặt xinh tươi, nổi bật
trong hình, nói:
- Anh coi cô này
có đẹp không?
- Ừ! Đẹp thật!
- Để coi cô ấy
tên gì.
Cẩm Dung lật tấm
hình đọc rồi reo lên:
- Á! Cô này tên
Kim! Dung nghe nói ngày còn trẻ, các cụ đã hứa làm sui với nhau đấy. Mai mốt
gặp nàng là anh phải tán nhe!
Tôi chỉ cười,
nghĩ: "Con ông tỉnh trưởng mà lại yêu một thằng nghèo ư?" Hơn nữa
trong tim tôi đã có người ngự trị.
***
Tôi rất nhớ An,
nhưng chẳng biết làm thế nào để gặp nàng, tuy nhiên, tôi biết cứ mỗi trưa chủ
nhật An thế nào cũng đi lễ nhà thờ về, và chị ruột nàng có cửa hàng bán guốc.
Vì vậy, cứ mỗi trưa chủ nhật tôi lại giả bộ đi đến các quán hớt tóc ở góc đường
Lý Thường Kiệt, Phan Thanh Giản coi cờ tướng, nhưng thật ra với mục đích nhìn thấy
nàng trên đường về nhà rồi trao nhau một nụ cười và cũng chỉ cần thế đêm đến
tôi có một giấc ngủ êm đềm.
Đọc báo chí ngày
đó, thường có những cặp trai gái yêu nhau, nhưng vì khác tôn giáo nên tình
duyên của họ không thành, rồi kết cục họ đã tự tử để trọn lời nguyện ước. Tôi
và An cũng nằm trong tình trạng đó. Gia đình nàng di cư vào Nam từ Ninh Bình,
và theo Thiên Chúa Giáo. Gia đình tôi từ hồi nào vẫn là Phật Giáo, nhưng riêng
cá nhân tôi, tôi thấy tôn giáo nào cũng dạy con người ta làm lành tránh dữ. Cho
nên tôi không tin tưởng hoàn toàn vào Phật Giáo, và chỉ dựa vào một số giáo lý
cơ bản của đạo Phật mà sống. Tôi có lẽ hơi duy vật, vì không tin vào các điều
mà tôi cho là huyền hoặc, không hợp lý. Tôi tin điều từ bi, hỷ xả, làm các việc
giúp ngưởi hoạn nạn tử triết lý cứu nhân độ thế, mà không bao giờ nghĩ làm vậy
là có phước được lên Niết Bàn. Theo sự suy luận của tôi, tôi nghĩ con người
chết rồi là hết chuyện, chẳng có Địa Ngục và chẳng có Niết Bàn hay Thiên Đường
gì hết.
Tôi phản đối
những ai quá tự tôn về tôn giáo mình, cho đạo mình là siêu việt, và khi cặp
trai gái lấy nhau bắt phía kia phải theo đạo mình. Theo ý riêng, tôi cho như
vậy là lợi dụng sự khó khăn của một người mà ép bức người đó phải theo điều
kiện của mình. Đây là điều không tôn trọng tự do tôn giáo vậy, vì tự do tôn
giáo là tùy quyền lựa chọn tôn giáo mình thích chứ sao lại ép buộc? Đã thế mà
người ta lại hay chống lại sự việc mà họ cho là không tự do tôn giáo.
Tôi rất đồng ý
con người có thể nên tin tưởng vào tôn giáo để có một sự chỉ hướng trong cuộc
sống hàng ngày, nếu mình không tự chế được. Nhưng nếu quá tôn sùng vào tôn giáo
nhiều khi đưa con người vào sự cuồng tín. Chính vì sự cuồng tín này, mà từ cổ
chí kim, đã đưa nhân loại vào nhiều cuộc chiến tranh mang hình thức tín ngưỡng.
Theo tôi nghĩ mọi tôn giáo phải như nhau, không ai hơn không ai kém.
Gia đình bên
ngoại tôi là một tấm gương sáng cho hậu thế về ý thức này. Ông bà ngoại tôi
cũng quê quán tại Ninh Bình. Vào đầu thế ký XX, ông bà ngoại tôi yêu nhau,
nhưng khổ một cái: ông theo đạo Thiên Chúa, còn bà theo đạo Phật. Với cái đà kỳ
thị tôn giáo thì chắc "đôi trẻ" không thành, nhưng thân sinh hai bên là
các người của những năm của thập niên 1890, đã đi đến một kết luận: Cứ cho
"đôi trẻ" tiến tới, nhưng ai giữ đạo nấy. Tuy nhiên như vậy chẳng mấy
công bằng vì hiện nay rất nhiều cặp đã làm việc này. Nhưng khi họ sinh con thì
lập tức đem vào nhà thờ làm phép rửa tội để thành một con chiên dù là đứa bé
này chưa hẳn mở mắt nhìn đời và biết gì tôn giáo. Vịêc này mới đáng nói, ông bà
cố tôi quyết định: Sau này, nếu sinh con trai, thì cho theo đạo bố, còn sinh con
gái thì cho theo đạo mẹ. Ôi thật công bằng. Vì vậy mẹ tôi theo đạo Phật, còn
cậu tôi theo đạo Thiên Chúa.
***
Một tối, tôi rủ
Súy đi chơi biển, nhưng thực ra tôi muốn đi ngang cửa hàng guốc xem có thấy
nàng không? Vào khoảng 9 giờ tối, chúng tôi ở biển về, khi đi qua cửa hàng
guốc, tôi đút tay túi quần, mắt liếc vào cửa hàng, thấy bóng nàng thấp thoáng ở
phòng trong.
Bất chợt tiếng
Súy vang lên khe khẽ:
- Thầy T kìa!
Tôi vội quay
lại, thì cũng vừa lúc thầy T đạp xe qua. Súy khoanh tay cúi đầu chào Thầy, còn
tôi không kịp rút tay nên chỉ cúi đầu:
- Thầy ạ.
Một tíc tắc sau,
chúng tôi nghe:
- K..é..t!
Tiếng xe thắng
lại ở phía sau.
Súy nói:
- Nguy rồi!
Tôi rút tay ra
khỏi túi quần.
Khi thầy T dừng
xe cạnh tôi, chúng tôi đã khoang tay cúi đầu chào:
- Thầy ạ.
Thầy T hỏi:
- Hiệp! Lúc nãy, em chào Thầy như thế à?
Tôi đáp:
- Dạ thưa Thầy lúc nãy em không kịp khoanh tay.
Thầy nhìn chúng tôi, hừ một tiếng, rồi quay đạp xe đi.
***
Tết nguyên đán gần đến, các lớp đều sửa soạn làm tiệc tất niên. Ba Gà-
trưởng lớp- cho bầu ban tổ chức lễ tất niên. Thật ra tên y là Ba, nhưng có lẽ
nhà y nuôi gà chọi, nên mấy đứa bạn mắc dịch gán cho y cái biệt hiệu đó. Hắn là
học sinh nhiều tuổi nhất lớp, nên các bạn đồng loạt bầu y vào chức vụ ấy. Ba Gà
là người miền Nam rất đàng hoàng làm việc đứng đắn. Sau cuộc họp, tôi được đề
cử làm trưởng ban cùng An, Thanh, Tị, Két, Đoạn, Súy, Đức Phan, Minh Đức,...lo
tổ chức lễ tất niên. Chúng tôi hẹn nhau lúc 1 giờ chiều hôm ấy, sẽ tụ họp tại
lớp để sắp xếp, bàn ghế cũng như bánh trái cho bữa tiệc.
Đúng 1 giờ, tôi tới cổng trường cùng lúc đó An cũng xuất hiện ở góc đường đối
diện. Hai đứa thật vui mừng vì cả trường vắng tanh, không một bóng người. Chúng
tôi đứng đợi các bạn ở đó, nhưng chẳng thấy ai, hơn nữa trưởng lớp giữ chìa
khóa nên chúng tôi không vào lớp được. Có lẽ tại văn hóa, các bạn tôi dùng đồng
hồ dây cao su Long Thành nên đến trễ. Tết miền Nam không như miền Bắc. Vào dịp
này miền Bắc có không khí lạnh lẽo, nhiều năm có cả mưa phùn. Trong khi ấy, ở
Nam tết đến nắng đổ lửa, nóng nực không kém các tháng hè là mấy.
Dưới ánh nắng gay gắt, hai chúng tôi phải vào cạnh bóng mát một cột cổng
trường để tránh bớt sức nóng và truyện trò. Nói chuyện một lúc mà vẫn chưa thấy
ai tới.
Thấy trời nắng quá, mà nơi đây không nhiều cây, tôi nói:
- An, mình ra hành lang sau lớp học,
cạnh chỗ tôi ngồi, nơi đó mát hơn nhiều. An nghĩ sao?
Nàng biểu đồng
tình:
- Mình đi!
Hai đứa tôi sánh
vai ra hàng hiên sau lớp học. Cả trường vắng tanh, nên tôi không bị mắc cở, do
đó tôi rất thú vị sóng bước cùng nàng. Sau lớp học có một cái bàn học trò hư để
sẵn và chờ lao công trường đến sửa. Tuy bàn bị hư nhưng băng ngồi vẫn còn tốt.
Tôi ngồi một đầu ghế, nàng ngồi cuối ghế, rồi trò chuyện trong lúc chờ các bạn
khác.
Ôi thật thú vị,
hai chúng tôi chuyện trò nơi đây mà không có một ai làm phiền.
Bất thình lình, hai tên anh chị ở đâu hiện ra
ở cuối hành lang, cách chỗ chúng tôi khoảng 20, 30 thước. Hai tên naỳ thường
hay mở cửa sổ gần chỗ nàng ngồi, ngắm nàng rồi buông lời chọc ghẹo. Một trong
hai tên là một tay chơi tạ, nên có thân hình lực lưỡng, còn tên kia thì ốm như
tôi nhưng cao hơn. Thật ra hai tên này học trên lớp tôi, nhưng vì thi rớt trung
học nên bị nhồi lớp. Khi thấy An và tôi, chúng dừng lại nói với nhau một chút,
rồi xăm xăm đi tới. Chúng chẳng nói năng gì, ngồi vào giữa.
Hai tên phớt lơ
tôi, quay sang hỏi An:
- An, có khỏe không?
An đứng dậy, vừa
đi vừa trả lời:
- Cám ơn, tôi
vẫn bình thường.
Nàng bước ra cột
xi măng ở cuối hành lang, và đứng ở đó, còn tôi và hai tên kia ngồi lại ở ghế.
Hai tên kia cảm
thấy quê quá.
Tên ốm, ngồi bên
cạnh tôi hất hàm, nhìn tôi:
- Mày ngồi đây
làm gì?
- Tôi ngồi chờ
các bạn.
Hắn hếch mặt:
- Sao mày ngồi
đây mà không ra phía trước?
Tôi đã bực mình
về cái bất lịch sự của chúng, khi ngồi chen vào giữa hai chúng tôi. Bây giờ,
chúng còn định lấy khẩu cung tôi nữa thì thật là quá đáng.
Tôi nhăn mày nói:
- Tôi có quyền
ngồi đâu thì ngồi, không ai có quyền bắt buộc tôi. Chuyện đó không phải việc
của anh!
Hắn quay nhìn
tôi đe dọa:
- Cái gì? Mày
nói ngon thật ta.
Tôi đanh thép:
-Tôi nói: đó
không phải là việc của anh!
Cả hai cùng đứng
dậy; tên ốm xăn tay áo, nạt:
- Tao nghe nói
mày là một thằng lì lắm, để tao coi mày lì cỡ nào?
Tôi cười khẩy:
- Tôi không đánh
nhau với anh!
- Bộ mày ngán
hả?
- Tôi chẳng
ngán, chẳng sợ ai hết. Tôi chỉ sợ công bằng và lẽ phải. Nhiều lần tôi đánh nhau
không phải là thích đánh nhau, mà là vì bảo vệ bạn bè, và danh dự thôi.
An nghe chúng
tôi lớn tiếng, nên vội vã quay lại. Nàng biết tôi sẽ bị nguy hiểm, nếu chúng
gây ra cuộc ấu đả, vì tôi phải chống cự với hai tên du đãng nổi tiếng là khỏe.
Tên đó đuối lý,
mặt đỏ tía tai, chỉ mặt tôi, chửi:
- Đm mày! Có
ngon ra kia!
Vừa nói hắn vừa
chỉ vảo khoảng đất trống cạnh hành lang.
Cái chửi của nó
làm tôi nóng máu, nhịn không nổi:
- Mày không có
quyền chửi tao. Bây giờ tao phải đánh nhau với mày.
Tôi nắm tay lại
nhẩy xuống bãi đất, chuẩn bị đụng trận.
Tôi biết nếu đánh trận này tôi có thể sẽ bị thương vì một chống hai, nhưng danh
dự không cho phép tôi hèn nhát.
An nhíu mày khổ
sở can:
- Hiệp! Hiệp
đừng…..,
No comments:
Post a Comment