Monday, June 11, 2012

Trung Quốc du kí 2007

Ngày Thứ NĂM 21/8/07
Tây An- Kinh Đô cổ đại nhất của TQ khoảng từ 1700 trước công nguyên



Phi trường Tây An



Trên đường đến Tây An




Thành Tràng An



Tây An, thủa xưa còn có tên là Hàm Dương, mà chúng ta đã biết qua các câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm CỦA BÀ Đoàn Thị Điểm:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại.

Bến Tiêu Tương thiếp hãi trông sang.

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương.

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một mầu.

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Sau này người ta còn biết đến tên Trường An. Thành Trường An nằm ở ngay ngoại ô của Tây An, nơi làm kinh đô nhà Chu, Tần, Hán, Đường cùng 11 triều đại khác. Đây là thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, nước Tần đời Chiến Quốc. Trong thi ca TQ thì nhiều bài tho đã nói tới Trường An:

幽 州 新 歲                     U Châu tân tuế                .
                           

去 歲 荊 南 梅 似 雪              

Khứ tuế Kinh Nam mai tự tuyết.

今 年 薊 北 雪 如 梅              

Kim niên Kế Bắc tuyết như mai.

              

Cộng ta[1] nhân sự vô thường định.

              

Thả[2] hỷ niên hoa khứ phục lai.

              

Biên trấn thú[3] ca liên dạ động.

              

Triều đình hiệu hỏa triệt[4] minh khai.

西               

Dao[5] dao tây hướng Trường An nhật.

              

Nguyện thướng Nam Sơn thọ nhất bôi.

       張說              Trương  Thuyết[6]

Năm mới tại U Châu

Năm ngoái Kinh Nam hoa tợ tuyết.               

Năm nay Kế Bắc tuyết như hoa.                    

Cũng thường than vãn đời vô định.               

Thỉnh thoảng hân hoan mai lại ra.                

Lửa hiệu cung đình ngày vẫn cháy.[7]  

Lính canh biên giới tối còn ca.                       

Trường An xa tít phương tây đó.                   

Chúc thọ Nam Sơn với rượu mà.                   

                                    VHKT 20                                  

 Năm ngoái Kinh Nam mai tợ tuyết.

Năm nay Kế Bắc tuyết như mai.

Nhìn đời thường vẫn thở dài

Đôi khi vui thích nhìn đài hoa tươi.

Lính biên cương, tối trời còn hát.

Hiệu cung đình, vẫn phát đó đây.

Trường An ở tận chân mây.

Nam Sơn xin chúc, ly này rượu ngon.

            VHKT 2008



[1] Ta: ta than.
[2] Thả: vừa, cứ.
[3] Thú: Lính thú.
[4] Triệt: thấu triệt. đến tận cùng (triệt để)
[5] Dao: xa, xa.
[6] Ông sinh năm 667có tự là Đạo Tế (có sách chép là Thuyết Chi). Người quê ở Lạc Dương (Hả Nam). Văn ông có ý chí mạnh mẽ. Năm 689 ông đậu đầu kỳ thi hiền lương phương chính, được bổ chức thái tử hiệu trung lang. Sau thăng chức Binh bộ thị lang và rồi Hoằng văn quán học sĩ. Đến đời Duệ Tông ông trong coi việc soạn quốc sử. Người đời khen ông là Đại Thủ Bút. Vì không hợp với tể tướng Diêu Sùng, ông bị giáng xuống làm thứ sử Tương Châu, rồi Nhạc Châu. Ông mất năm 760, thọ 64 tuổi.
[7] Vì muốn giữ ý cuả cả bài lại muốn giữ thanh luật, đối luật nên dịch hai câu 3, 4 đảo ngược.

No comments:

Post a Comment