Tạ Từ
Tay
sách, vai mang túi hành trang.
Chân cất bước đi, dạ bàng hoàng.
Quay đầu nhìn lại con cùng vợ.
Nàng vẫn ôm con, vẻ ngỡ ngàng.
Nhà
khuất xa dần sau hàng cây.
Con
chim lẻ bạn khóc xa bầy.
Hình
dáng em buồn anh nhớ mãi.
Thuyền tách bến đi, đi đến đâu?
Dòng sông cuộn nước đục mầu nâu.
Đưa ta đi đến phương nào nhỉ?
Nàng
biết rằng không, anh ở đây?
Một
nơi, gai kẽm mắc giăng đầy.
Lòng anh chỉ ước mộng sum vầy.
Con lớn chừng nào? Có ngoan không?
Cầu xin em mãi khắc ghi lòng.
Nuôi con khôn lớn chờ anh nhé.
Nằm mộng gặp em ở bến sông.
Đêm nay trăng sáng ở đầu giường.
Ngỡ đâu mặt đất tỏa hơi sương[4]
.
Khi nào anh sẽ về quê nhỉ?
Bồng bế con thơ thỏa nhớ thương.
VHKT-
1975- Trại học tập Thơm- Bến Tre
[1] Đây là hòn Vọng Phu ở làng Nhồi,
Huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Nơi tôi đã sống thủa thơ ấu.
[2] Tìm công danh. Lấy nghĩa từ câu
cuối cùng trong bài “Khuê Oán” của thi sĩ Vương Xương Linh đời Đường;
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu.
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy
lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc.
Hối giao phu tế mạch phong hầu.
Có nghĩa là:
Phòng khuê thiếu phụ quên sầu.
Ngày xuân ngưng điểm, lên lầu dạo
chơi.
Nhìn mầu dương liễu ngàn nơi.
Buồn cho phu tế vẫn nơi phong
hầu.
[3] Lấy nghĩa từ mấy câu thơ sau đây
trong bài Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn thị Điểm:
Chàng phong lưu đang chừng niên thiếu.
Sánh nhau cùng gian dứu chữ duyên.
Ngỡ nào đôi lứa thiếu niên.
Quan sơn để cách hàn huyên sao đành.
[4] Dịch nghĩa từ 2 câu dâu đầu
trong bài Tĩnh Dạ Tứ cùa Lý Bạch (xem sau này).
No comments:
Post a Comment