Cuối bậc trung
học đệ nhất cấp- đệ tứ (lớp 9), tôi học chung cùng lớp với Thanh, Thiện vì hai
anh em cô ta đã kém may mắn trong kỳ thi trung học đệ nhất cấp trong niên học
trước.
Lề lối học vấn
cùng thi cử ngày ấy rất khó khăn. Một năm, có một kỳ thi Trung Học cho toàn
quốc và số thi đậu khoảng 20%. Các học sinh học hết lớp đệ tứ (lớp 9) phải tham
dự kỳ thi này, tuy nhiên một học sinh thi rớt bằng Trung Học vẫn có thể học đệ
tam (lớp 10) nếu họ đủ điểm trung bình. Khi đến lớp đệ nhị (lớp 11), các học
sinh lại phải tham dự kỳ thi tú tài I. Kỳ thi Tú Tài I cũng được tổ chức cho
toàn quốc, một năm có hai khóa: khóa một khoảng đầu tháng 6 và những người kém
may nắm trong khóa một sẽ được thi khóa hai. Khóa hai thường được tổ chức vào
khoảng giữa tháng 9.
Một kỳ thi tú
tài gồm hai phần: thi viết và thi vấn đáp. Sau khi thi viết độ nửa tháng thì
kết quả được công bố. Một học sinh sau khi đậu thi viết sẽ phải thi vấn đáp và
họ cũng đậu kỳ thi này họ sẽ có bằng Tú Tài I và được học lớp đệ nhất. Một học
sinh thi rớt môn viết sẽ thi lại từ đầu vào khóa hai, còn ai thi vấn đáp rớt
thì chỉ sẽ thi lại vấn đáp vào khóa hai. Nêú khóa hai mà họ cũng rớt vấn đáp
thì năm đó kể như bỏ và vào niên học kế tiếp họ lại bắt đầu từ số 0. Cả hai kỳ
thi, số học sinh thi đậu chỉ khoảng 15 hay 16% mà thôi. Một học sinh thi tú tài
I rớt liên tiếp thì đường học vấn của họ kể như là chấm dứt. Nữ sinh thì lo làm
việc gì đó kiếm sống, còn nam sinh thì chỉ có một con đường duy nhất là: “Xếp
bút nghiên theo việc đao cung” đi lính!
Bằng Tú Tài II
lại càng khó khăn hơn nhiều, tuy nhiên cách thi cử cũng tương tự như kỳ thi Tú
Tài I. Tỷ số thi đậu một năm khoảng 13%. Làm một phép toán ta thấy trong 1000
học sinh, sau hai kỳ thi Tú Tài thì chỉ còn 21 người đậu bằng Tú Tài II. Trong
thời gian ấy, nhiều ngừơi chế diễu những kẻ thi rớt Tú Tài bằng cách gán cho
người thi rớt một quân hàm: rớt một lần là Thiếu Úy Tú Tài I hay II; hai lần là
Trung Úy Tú Tài… Có kẻ lên tới Đại Tá (ba năm thi) hay Tứơng (bốn năm trở lên)
mà vẫn không đậu. Trong khi kỳ vọng gia đình rất cao cho kẻ đi thi, nên nhiều
người thi rớt đã tự tử để khỏi bị mang nhục.
Năm ấy, mẹ tôi
tốt nghiệp bằng Anh văn Lower Certificate của đại học Cambridge. Bà quay về
Vũng Tàu mở lớp Anh văn tư thục tại nhà. Cẩm Dung và một số bạn bè cùng lớp
theo học lớp đó. Vài người bạn cùng lớp tôi là Kiệm, và Hùng (cháu ông Nguyễn
Đình Hòa) cũng có mặt trong số học sinh đó. Tôi học sinh ngữ bậc cao hơn, nên
không phải là học sinh chính thức của lớp, tuy nhiên đến giờ chính tả, tôi thường
ra tham dự để luyện thêm về ngữ vựng.
Một hôm, ở trong
lớp ở trường công, giáo sư T đột nhiên hỏi chúng tôi:
- Các em học
sinh cũ còn nhớ em An không?
Chúng tôi hơi
ngạc nhiên, vì giáo sư T là người rất nghiêm trang, ít khi nói chuyện về một
học sinh nào.
Các học sinh cũ
như Thanh, Tị, Két, Đoạn đồng loạt hỏi:
- Thầy nói chị
An là chị thật đẹp người mà trước kia đã học trường này phải không Thầy?
- Đúng đó!
- Các em tưởng
chị ấy đã đậu trung học rồi mà?
- Không An bị
trượt. Chiều hôm qua, An đến thăm Thầy và ngỏ ý muốn về học lại trường mình. Có
lẽ An sẽ theo học lại lớp đệ tứ.
Tôi không biết
cô An đó là ai mà thầy T nhắc nhở như vậy? Chắc cô này đẹp lắm, và thầy giáo
cũng chỉ là người có đủ thất tình lục dục, nên thầy có cảm tình với một người
đẹp thì cũng bình thường thôi. Theo quan niệm tôi, thầy giáo chỉ là người
truyền đạt kiến thức cho kẻ chưa biết điều đó, chứ ông ta không phải thầy tu
hay thần thánh gì. Vì vậy việc thầy trò yêu nhau là chuyện bình thường, miễn là
đừng làm trái với luân thường đạo lý. Tôi tôn trọng các thầy, các cô là vì họ
đã cố công truyền đạt kiến thức họ cho chúng tôi, để sau này chúng tôi dùng
kiến thức ấy trong việc mưu sinh.
***
Tuần sau, trước
khi có giờ chính tả Anh văn tại nhà, mẹ tôi hỏi:
- Hiệp, hôm nay
con có ra viết bài chính tả không?
Tôi đáp:
- Thưa mợ không,
hôm nay sau khi gánh nước, con phải lo làm nhiều bài tập lắm.
Thời gian ấy, khu tôi ở chưa có nước máy, nên cứ khoảng hai ngày tôi phải gánh nước từ một cái xe đậu trước cửa vào nhà, và đổ vào cái bể cạn cho nhà dùng. Kể từ năm tôi học đệ ngũ, Cẩm Dung phải lo chuyện rửa chén, nấu cơm còn tôi phải lo gánh nước, tưới rau, chứ không như trước việc gì hai anh em cũng chia đôi. Bố tôi sợ nếu bắt Cẩm Dung gánh nước sẽ khiến chân tay thô kệch, làm cho mất đi cái vẻ yểu điệu của một cô thiếu nữ.
Tôi lo đi gánh
nước, rồi vào nhà làm bài toán, cũng vừa lúc đó lớp học bắt đầu. Tôi môn gì
cũng thích, nhưng đặc biệt là toán. Vì vậy khi thầy Nguyễn Tuấn Văn cho bài tập
về là tôi ngồi chứng minh, nhưng không phải là một cách giải mà là vài ba cách
khác nhau. Thầy thường đem bài tập của tôi cho học sinh các lớp khác xem làm
mẫu. Vì vậy mà tôi càng phải trau dồi môn này nhiều hơn. Bản tính tơi viết chữ
rất cẩu thả, sách vở giữ không sạch sẽ mấy, nhưng với môn toán tôi viết rất rõ
ràng ngăn nắp. Nếu con số viết không rõ ràng thì kết quả có thể bị sai lạc. Hồi
còn học tiểu học ở Thanh Hóa, bác tôi mỗi lần khám sách vở, thường đánh tôi rất
nhiều vì viết chữ xấu. Mỗi lần như vậy bác lại mắng: “Mày viết chữ như gà bới
bếp, sau này lớn lên chỉ đi hốt cứt bò để sống, chứ học hành sao được?”
Một chặp sau, khi
đang chăm chú giải toán, tôi nghe giọng của một thanh niên:
- Thưa cô con
mới tới.
Tiếng mẹ tôi đáp
lại:
- Chào Quân, hôm
nay cậu đến trễ thế!
Quân là một
thanh niên, cũng có thể gọi là khá tuấn tú, lớn hơn tôi vài tuổi. Tôi không
biết anh ta làm gì để sống, nhưng chắc chắn không phải là một học sinh thuần
túy.
Tiếng Quân đáp
lại:
- Thưa cô, hôm
nay con dắt lại cho cô một cô học sinh mới.
Tiếng trong trẻo
của một cô gái Bắc vang lên:
- Dạ chào cô.
Mẹ hỏi:
- Tên cháu là
gì?
Quân nhanh nhẩu
đáp thế:
- Dạ, tên cô ấy là An.
Tôi tò mò ai mà có tiếng nói nghe trong quá: "trong như tiếng hạc bay
qua" thế này? Tôi định ngó ra lớp học xem coi An như thế nào, nhưng thấy
thật quá trắng trợn, thô bỉ nếu tôi làm như thế, nên đành ngồi lại trong phòng
làm bài tiếp. Tôi phân vân tự nghĩ: "Chẳng biết cô An này với cô An mà
thầy T nhắc trong lớp có liên quan gì đến nhau hay không?"
Sau hơn một giờ học văn phạm, ngữ vựng, tiếng mẹ tôi vang lên:
- Nào bây giờ đến phần viết chính tả. Các con cất tập xuống hộc bàn đi!
Tôi nghĩ đây là cơ hội để tôi nhìn cô gái tên An ấy, nên cầm giấy bút ra
lớp học.
Mẹ hơi ngạc nhiên, vì trước khi học tôi đã cho bà biết tôi không ra viết
chính tả hôm ấy.
Bà hỏi :
- Con cũng ra viết chính tả à?
- Dạ vâng.
Bà quay sang An:
- Để cô giới thiệu
với cô học sinh mới. Đây là Hiệp, con trai của cô,
còn đây là An.
Tôi cúi đầu chào
An. Nàng cúi đầu, nhoẻn miệng cười đáp lại. Ôi chao một nụ cười! Nụ cười ấy làm
tôi chân tay run lẩy bẩy. Người con gái trước mặt tôi có mái tóc đen huyền dài
chấm thắt lưng, cặp lông mày dài như lá liễu, với đôi mắt đen lay láy như hạt
huyền nổi bật trên một làn da hơi ngăm ngăm càng tăng thêm vẻ duyên dáng, yêu
kiều của một thiếu nữ mới dậy thì. Tôi có cảm tưởng lớp học của mẹ tối hôm ấy
sáng rực rỡ hơn mọi ngày với chiếc áo dài tím của nàng. Tuổi nàng cũng chạc
tuổi tôi thôi.
Tôi nghĩ: “Từ
nhỏ đến bây giờ mình mới thấy một cô gái đẹp như thế này.”
An ngồi chăm chỉ
học, dường như nàng không quan tâm tới một ai cả.
Lớp học tan, tôi
có cảm tưởng như mất đi một cái gì quí giá. Một điều quan trọng, tôi không biết
An có phải là người yêu của Quân hay không?
No comments:
Post a Comment