CHƯƠNG 03 (tt)
Viết lại một
đoạn tuần trước để độc giả dễ hiểu:
Chúng tôi dùng
các tài liệu thu lượm khắp nơi từ sách vở đến các trang website thiết kế lại
một trebuchet (Hồi pháo) đơn giản dưới đây:
Thiết kế này chỉ
chú trọng tới nguyên tắc phóng đá mà thôi.
Theo các tài
liệu về trebuchet (Hồi pháo) thì muốn phóng một vật đi xa khoảng 100 mét thì
đối trọng phải nặng gấp 100 lần vật phóng. Như vậy muốn phóng vật nặng 100 kg
vào thành các xa nơi đặt súng 100 mét thì đối trọng phải nặng tới 10000 kg.
Theo thiết kế nguyên thủy của trebuchet
(Hồi pháo), thì phần đối trọng là một cục đá hay kim loại.
(Xin bấm vào
hình vẽ, hình sẽ hiện lên rõ hơn)
Hình một trebuchet (Hồi pháo) nhìn từ sau tới
(thiết kế trên solidworks)
Hình một trebuchet (Hồi pháo) nhìn từ trước tới sau
(thiết kế trên solidworks)
Dưới đây là các giai đoạn bắn đá:
GIAI ĐOẠN 1.
BẮT ĐÂÙ
GIAI ĐOẠN 2
ĐỐI TRỌNG RƠI
GIAI ĐOẠN 3
SỨC LY TÂM ĐỦ MẠNH
GIAI ĐOẠN 4
ĐÁ ĐƯỢC PHÓNG RA
Nhưng đưa một
cục nặng tới 10 tấn lên cần phóng thì không phải dễ dàng. Sức con người làm sao mang được? Các kỹ sư
lúc ấy đã nghĩ ra cách giải quyết là đối trọng làm dưới hình thức một cái thùng
thật lớn. Muốn đối trọng nặng hay nhẹ, người điều khiển súng bê vào hay lấy ra
các cục đá trong thùng ấy. Đặc điểm của thùng này là thùng quay quanh một trục.
Như vậy làm khoảng cách từ trọng tâm của đối trọng xa tâm quay mà cần phóng
không phải thật dài. Hai điểm này phải
nói là những cải cách lớn lao.
Hốt Tất Liệt cho
chở 92 cái đến Tương Dương tấn công. Theo Stephen Turnbull thì những viên đạn
được bắn ra nặng 10 lần so với các viên đạn được bắn từ trước cho đến lúc ấy.
Theo ước lượng thì viên đạn có thể nặng tới gần 100 kg. Một quả đạn bắn vào làm
sập luôn cổ lâu[1] của
thành. Trong quyển ấy có viết một đoạn sau: các
viên đạn phóng ra khoảng vài bộ[2]
đường kính và khi rơi xuống đất tạo ra các hố sâu ba hay bốn bộ.. (the
projectiles were several feet in diameter, and when they fell to earth, they
made a hole three or four feet deep.)[3] Trong
quyển “Cuộc kháng chiến chống xâm lược
Nguyên Mông thế kỷ XIII” của ông Hà Văn Tấn và bà Phạm Thị Tâm, trang 132
phần phụ chú cũng phân tích công nhận các súng này là loại trebuchet (Hồi
pháo), chứ không phải súng có nòng như ngày nay. Quyển sách ấy cũng nhắc lại
các loại đạn nặng, to bao nhiêu tương tự như phần trên.
Bây giờ ta lại
nghiên cứu xem sức mạnh của các súng trebuchet (Hồi pháo) đến mức độ nào dưới
cái nhìn của khoa học.
Dựa vào bài toán
đạn đạo ta đã thấy trên phần về bắn cung (chương 2- Vũ khí) và theo các dữ kiện
của lịch sử ghi lại với các viên đạn nặng 100 kg được bắn xa 100 m ta sẽ thấy
một vài kết quả như sau:
Ta lấy góc bắn α
= 30 º đường tầm đạn 100 m thì có vận tốc đầu 33.7 m/s. Giả sử mục tiêu nằm
trên mặt đất thấp hơn đối với viên đạn lúc được phóng ra 10 m.
Vì mục tiêu thấp
hơn điểm ban đầu và vận tốc đầu là 33.7 m/s nên khi đến mục tiêu thì viên đạn có vận tốc
là V = 36.5 m/s.
Áp dụng công
thức tính động năng ta có:
Ke =
(½)(m)V2
= (.5)(100)(36.5)2
= 66613 Joule
Khi nói con số này thì ta khó tưởng tượng sức
mạnh ấy như thế nào, nên ta xét xem một con voi[1]
nặng 4000 kg chạy với vận tốc 20 km/h (20 kilomét 1 giờ hay 5.556 m/s) và húc
vào một vật xem thử nó tạo ra bao nhiêu Joule.
Cùng công thức trên, ta có:
Ke =
(½)(m)V2
= (.5)(4000)(5.56)
=
61738 Joule
Xem ra viện đạn còn mạnh hơn con voi khổng lồ, và
sau khi húc vào vật ấy thì con voi cũng không thể sống nổi.
Năm 1273, sau 5 năm chống đỡ thành Tương Dương bị
thất thủ (Trong chuyện Thần Điêu Đại Hiệp, Kim Dung đã nhắc tới chuyện tử thủ
thành Tương Dương khá nhiều và Dương Qua đã dùng một viên đá ném chết Mongke.
Trong sử ghi mỗi nguồn một cách khác nhau. Có quyển ghi Mongke chết ở Hợp Châu
(tức Hợp Xuyên, Tứ Xuyên). Theo Trùng Khánh chí: Mông Ke trúng đạn chết, trong
khi ấy nhà sử gia Allah Rasid Ud-Din (Người Ba Tư) lại viết là chết vì kiết lỵ.
[1] Dựa vào
các tài liệu viết về voi: Elephants của Melissa Stewart- Asian Elephant của
Matt Turner và Elephants của Joyce Poole.
[1] Lầu để
trống đánh điểm canh, thúc quân, báo động…Vì ngày xưa người ta chưa có đồng hồ,
nên các thành phố lớn thường cho xây các lầu Chung lâu (lầu chuông) hay Cổ lâu
(lầu trống) để báo giờ cho dân chúng. Cũng có khi dùng để báo động giặc đến,
hỏa hoạn, hay thiên tai như lụt, động đất. Hiện nay ở Tây An (Hàm Dương hay còn
biết tới tên Trường An- tình Thiểm Tây)
có hai lầu này xây từ đời Minh.
[2] Ba bộ là gần 1 m.
[3] Trang
64, Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400.
No comments:
Post a Comment