Thẩm Thuyên Kỳ: Ngừoi ta chưa biết rõ năm
ông sinh, nhưng vào khoảng cuối thế kỷ thứ
7. Tự là Vân Khanh, quê Nội Hoàng, Trường Châu. Năm 675 ông đậu tiến sĩ,
làm quan đến chức thông sự xá nhân. Một
thời bị hạch tôi hối lộ, nhưng việc chưa
ngã ngũ thì ngừơi hạch tôi qua đời. Sau ông làm tới chức trung thư xá nhân, rồi
qua đới năm 713.
Ông là một thi
sĩ sở trường về thơ ngũ ngôn. Ông và
Tống Chi Vấn là những thi sĩ nổi tiếng trong chốn cung đình, nên văn học xưng
là “ Thẩm Tống ”. Hai người thường làm thơ ứng chế (thơ hoạ với vua), văn
chương mỹ lệ, tổng hợp văn phong thời Lục Triều để làm nền tảng cho thơ Ðường
Luật sau này.
古 意
CỔ Ý.
盧 家 少 婦 鬱 金 香
海 燕 雙 悽 玳 瑁 梁
九 月 寒 砧 催 木 葉
Cửu nguyệt hàn trâm[6]
thôi mộc diệp.
十 年 征 戍 憶 遼 陽
Thập niên chinh thú ức Liêu Dương.
白 狼 河 北 音 書 斷
Bạch Lang, Hà Bắc âm thư đoạn.
丹 鳳 城 南 秋 夜 長
Đan Phụng Thành Nam thu dạ trường.
誰 為 含 愁 獨 不 見
Thùy vị hàm sầu độc bất kiến.[7]
更 教 明 月 照 流 黃
Cánh giao minh nguyệt chiếu Lưu Hoàng[8].
沈 佺 期 Thẩm Thuyên Kỳ.
Ý
Xưa
Nàng Lư hái uất
kim hương.
Chợt thấy én biển
trên rường đậu đôi.
Tháng chín lá rụng
trên đồi.
Mười năm lính thú
nhớ người Liêu Dương.
Bạch Thành, Hà Bắc
phân đường.
Thành Nam, Đan
Phụng đêm trường chẳng quên.
Lòng buồn ai đã
tạo nên?
Muốn theo trăng
chiếu lên trên Lưu Hoàng.
VHKT
Nàng Lư đi hái uất
kim hương.
Thấy một đôi oanh
đậu trốc rường.
Chín tháng tiếng
chày làm lá rụng.
Mười năm lính thú
nhớ Liêu Dương.
Bạch Thành, Hà Bắc
không tin tức.
Đan Phụng, Thành Nam ,
đêm hận trường.
Chỉ tại chia phôi
lòng mới khổ.
Muốn cùng trăng
chiếu khắp Lưu Hoàng.
VHKT
[1]
Thiếu phụ họ Lương.
[2]
Tên cỏ uất kim hương.
[3] Song
thê một đôi lạnh
lẽo.
[4] Đại
mạo: con đồi
mồi.
[5] Lương: rường nhà.
[6] Châm: chày giặt. ngày xưa người ta
giặt bằng cách để quần áo trên đá rồi dùng chày đập lên.
[7] Cả câu có nghĩa là vì ai mà buồn
chỉ vỉ không gặp.
[8] Cả câu có nghĩa là mưốn làm ánh
trăng chiếu đến Lưu Hoàng, nơi chồng đang làm lính thú.
No comments:
Post a Comment