Hán-
Cường Quốc cô đơn
I.
Hán- gốc người của
xâm lăng.
“Xâm
lăng, mở rộng biên cương là châm ngôn người Hán.”
Ngay
từ thời mới lập quốc cách đây năm trên 20 ngàn năm, khi mới lập quốc, ngừơi Hán đã tìm
cách thôn tính lẫn nhau. Trung Quốc có rất giống người, nhưng khi tôi nói rõ
Hán, thì ám chỉ tới người to lớn, mắt xếch sống phía bắc nước Trung Quốc. Hầu hết các người Hoa sinh sống ở Việt Nam là người
Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, đó là các ngừoi có nguồn gốc Bách Việt.
Trong thời gian này, họ sinh sống hầu hết ở phía bắc
sông Dương Tử (Trường Giang), nói cùng ngôn ngữ Quan Thoại. Vì cùng ngôn ngữ,
nên một người nước này sang nứơc khác, buôn bán, làm quan một cách dễ dàng như
Tôn Vũ (孫武) người Tề làm đại tướng cho Ngô; Tô Tần
(蘇秦) làm quan sáu nước; Tôn Tẫn người
Tề làm quan cho Ngụy sau mới quay lại Tề. Thậm chí có khi họ còn quay lại nước
cũ chinh phạtmà không bị coi là phản quốc như Ngũ Tử Tư (伍子胥) người Sở làm quan cho Ngô phạt Sở; Trương Nghi (張儀) người Ngụy làm thừa tướng choTần diệt Ngụy.
Từ
nhà Hạ đến nhà Chu họ đánh nhau không ngớt với mục đích là bành trướng đế quốc.
Đến thời mạt Chu thì chiến tranh quy mô hơn thành Đông Chu liệt quốc 770 đến
256 TCN
Trong
thời Đông Chu có khoảng 170 nước chia cắt miền bắc TQ ngày nay. Nhiều trận chiến
thôn tính các nước nhỏ để thành một số nước lớn. Thời ấy có tên là Xuân Thu.
Rồi
các nước nhỏ bị hấp thu chỉ còn 7 đó là thời Chiến Quốc từ 476 đến 221 TCN. Người ta thường gọi
Chiến Quốc Thất Hùng (戰國七雄) để chỉ bảy cường quốc, đã được hình thành từ sự suy yếu
của nhà Chu.
Chiến
quốc Thất Hùng gồm: Hàn, Ngụy, Sở, Tần, Tề, Triệu và Yên.
Chiến Quốc Thất
Hùng đánh nhau chí mạng.
Cuối
cùng thì Tần Thủy Hoàng đã thống nhất các nước ấy lập ra Trung Quốc năm 221
TCN. Nhưng ta phải biết rằng Trung Quốc ngày ấy hầu hết vùng đất phía bắc sông
Trường Giang mà thôi.
Khi lập xong một nước khổng lồ Trung Quốc,
nhà Tần lập tức nghĩ tới chuyện thôn tính các nước phương nam sông Trường Giang
của giống người Việt. Tần Thủy Hoàng Sai Đồ Thư và Triệu Đà đem 500000 quân xuống
phía nam con sông này để tiêu diệt các nước, bộ lạc người Bách Việt. Nhưng các
người gốc Việt đã kháng cự mãnh liệt với chiến thuật du kích, rút vào rừng sâu
cố thủ, đêm đêm ra tấn công quân địch.
Cùng
khi ấy, Lưu Bang và Hạng Võ khởi binh diệt Tần. Nhà Tần càng ngày càng suy yếu,
hết kiểm soát nổi cánh quân phương nam của Đồ Thư và Triệu đà. Vì các cuộc kháng
chiến của người Việt phương Nam vùng Quảng Tây và Bắc Việt ngày nay mà Đồ Thư bỏ
mạng. Trước khi từ trần, Đồ Thư khuyên phó tướng Triệu Đà nên lập quốc tự trị. Từ
đó sinh ra chuyện Triệu Đà lập ra nước Nam Việt chạy dài từ vùng Triết Giang xuống
đến Bắc Việt ngày nay. Một số sử gia người Việt Nam đã công nhận Triệu Dà là
vua đầu tiên của người Việt, rong khi ấy một số đông khác chống lại quan niệm
này.
Kể
từ đó, người gốc Hán luôn nghĩ chuyện tiêu diệt người Việt cùng các quốc gia
lân bang. Nhà Hán tiếp tục mở rộng biên cương về phương nam, thôn tính Nam Việt.
Nhà Hán đã thành công khi chiếm trọn các
vùng từ Triết giang, Ngũ Hồ, An Huy xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây. Dân Việt
các vùng đó đã bị Hán hóa từ từ, chỉ trừ các người Việt định cư tại vùng châu
quanh thổ sông Hồng. Ngày nay, bạn hỏi một người Quảng Đông chẳng hạn, họ là gốc
người gì? Thì họ mạnh dạn trả lời tôi là người Trung Quốc.
Sau
khi thôn tính được các vùng từ sông Trường Giang đến Quảng Tây, người Hán đã
tung bao nhiêu lần tấn công thôn tính nước ta, nhưng dân Việt đã chứng tỏ cho
nhân loại thấy dân nhỏ con nhưng rất khó gậm. Khởi đầu là hai người phụ nữ đầu
tiên đứng lên giải phóng chống Trung Quốc, hai bà Trưng. Sau đời Hán, các triều
đại khác vẫn tìm cách đô hộ Việt Nam, nhưng các anh hùng dân Việt vẫn tiếp tục
đánh trả bảo vệ quê hương. Dù người Hán đô hộ đất Việt trong non 1000 năm, cho
đến đầu thế kỉ 10, thì họ Khúc đã tìm cách tách Việt Nam ra khỏi Truong Quốc.
Và đến năm 938, Ngô Quyền đã đánh bại quân nam Hán trên sông Bạch Đằng, bẻ gãy
ách nô lệ cho dân ta, lại dành được độc lập.
Về
phương đông, người Hán tìm cách xâm chiếm Đại Hàn, Nhật Bản. Đại Hàn thủa xưa có tên là Cao Ly Cấu, lan
rộng sang đến vùng Mãn Châu giáp đất Yên-Tề ở vùng Bắc kinh và Sơn Đông ngày
nay. Sau bao năm chống cự họ cũng thu nhỏ lại như nước Việt ta.
Bản đồ Cao Ly- Đại Hàn thủa xưa
Nhật
Bản thì may mắn hơn nhiều là nhờ biển cả và ngành hàng hải của người Hán thì rất
tệ, vì họ ở vùng xa biển cả, ít sông ngòi. Tuy người Hán sang xâm lăng nhiều lần,
nhưng tiếp vận khó khăn, nên nước này được tự do phát triển và giữ được độc lập
lâu bền.
Họ
tiến lên phương bắc thì quá lạnh. Nơi đây phần lớn là các thảo nguyên mênh mông
, chỗ hoạt động của kị binh, mà các người du mục gốc Mông Cổ
, Nữ Chân , Kiết Đan… chiếm cứ. Các giống dân ở đây quá thiện
chiến. Chiếm đất không xong thì họ lo phòng thủ bằng cách xây nên các trường
thành: nước Tần xây Tần Trường Thành, nước Triệu xây Triệu Trường Thành và nước
Yên xây Yên Trường Thành. Khi thống nhất lục quốc, Tần Thủy Hoàng cho nối các
trường thành lại với nhau và gọi đó là Vạn Lý Trường Thành.
Vạn
Lý Trường Thành ngày nay không phải chổ nào cũng đẹp như các bạn thấy hình chụp
đâu. Vùng đất Tần ngày xưa nay thuộc tỉnh Cam Túc nhìn rất thiểu não. Nó chỉ còn
lại một giải đất cao vài thước.
Tần
Trường Thành ngày nay
Vùng
gần Bắc Kinh, nơi nhà Minh trùng tu cách đây bốn trăm năm thì đẹp và được chính
quyền đương thời giữ gìn tân tạo để hấp dẫn du khách.
Yên Trường Thành ngày nay - ảnh VHKT
Phương
tây thì hoang dã khô cằn. Ngừơi Hán cũng cho các lực lượng tiến thật xa đến
vùng biển Caspian, nhưng không chiếm mà lại rút về.
Chắc ai cũng biết chuyện con đường
Tơ Lụa của Trung Quốc. Con đường đã mang các sản phẩm Trung Quốc như tơ lụa Tô
Châu- Hàng Châu sang tận La Mã và mang các thứ rượu quý cùng vải từ tây phương
trở lại. Đó là công của Phó Giới Tử. Ta đã biết nhân vật này khi học Chinh Phụ
Ngâm: “Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử.” Cũng trong đời Hán, một tướng tên Hoắc Khứ Bệnh cũng tiến về phương tây
thật xa. Nhưng khi ông này qua đời thì các vùng này lại trở nên độc lập. Mãi đến
đời Thanh họ mới thực sự chiếm vùng phía tây tỉnh Cam Túc từ tay người Hồi
và đặt tên là Tân Cương (biên cương
mới). Dân Trung Quốc phải cám ơn dân Mãn Châu- đạc biệt là Càn Long mà đất nước
mở rộng. Không những thế dân chiếm đóng Mãn Châu lại tư dâng đất cho người Hán.
Khi nói tới Hoắc Khứ Bệnh thì ta không
quên tới bài thơ của Lý Bạch. Ông đã nhắc tới tên vi tướng quân họ Hoắc trong
bài thơ sau:
塞下曲其三
Tái hạ khúc kỳ 3
駿馬如風飆
Tuấn mã như phong biều
鳴鞭出渭橋
鳴鞭出渭橋
Minh tiên xuất Vị Kiều
彎弓辭漢月
彎弓辭漢月
Loan cung từ Hán nguyệt
插羽破天驕
插羽破天驕
Tháp vũ phá thiên kiêu
陣解星芒盡
陣解星芒盡
Trận giải tinh mang tận
營空海霧銷
營空海霧銷
Doanh không hải vụ tiêu
功成畫麟閣
功成畫麟閣
Công thành họa Lân các
獨有霍嫖姚
獨有霍嫖姚
Độc hữu Hoắc Phiêu Diêu
李白 Lý Bạch
Nghĩa:
Khúc hát dưới ải kỳ 3
Tuấn mã chạy phi như gió
Hét, quất roi thẳng Vị Kiều
Giương cung từ tạ trăng Hán
Mũi tên có gắn lông phá giặc trời
Trận tan, tia sáng trên sao tắt
Doanh vắng, khói biển tiêu tan
Lập công được vẽ hình trên gác Kỳ Lân,
Chỉ có quan Phiêu Diêu họ Hoắc[1] .
Hét, quất roi thẳng Vị Kiều
Giương cung từ tạ trăng Hán
Mũi tên có gắn lông phá giặc trời
Trận tan, tia sáng trên sao tắt
Doanh vắng, khói biển tiêu tan
Lập công được vẽ hình trên gác Kỳ Lân,
Chỉ có quan Phiêu Diêu họ Hoắc[1] .
Tuấn mã
phi như gió,
Thét
roi ra Vị Kiều.
Cung
dương, từ Hán nguyệt.
Tên
bắn, diệt binh kiêu.
Trận
mãn, sao tàn lụy.
Trại
không, khói cũng tiêu.
Lập
công, hình được vẽ,
Chỉ có
Hoắc Phiêu Diêu.
VHKT
Tuấn mã trên
đường nhanh tợ phi.
Vị Kiều, nhắm
hướng, thét roi đi.
Cung dương dã
biệt trăng sông Hán.
Tên bắn dẹp
tan giặc núi Kỳ.
Trận chiến đã
tàn, sao lặn mất.
Trại quân
cũng trống, khói còn chi.
Thành công,
hình vẽ Kỳ Lân các,
Chỉ Hoắc Phiêu Diêu mới được ghi.
VHKT
VHKT
Quân
Hán cũng tiến đến Tây Tạng, Vân Nam nhưng vận chuyển khó khăn vì núi non trùng
điệp chạy theo hướng nam bắc, ngăn lối tiến công. Đến thời Tam Quốc, Lưu Bị, Khổng
Minh mới non men đến phía bắc Vân Nam, vùng đất của người Bạch, Thái, Di thiện
chiến và đã từng lập ra nước Nam Chiếu hùng cường. Nứơc đã từng làm nhà Đường vất vả và nước ta khốn đốn
một thời. Từ đó ta được đọc chuyện Khổng Minh vây bắt Mạnh Hoạch 7 lần.
Tuy vậy, khi Trung Quốc chia năm sẻ bẩy
thì nước lại trở nên độc lập. Người Hán phải khoanh tay đứng nhìn vì lợi địa của
nước này. Sau đó, nước đổi tên là Đại Lý với các nhân vật họ có thật như
Đoàn Nam Đế, Đoàn Chính Thuần, còn Đoàn Dự
thì đừng tin… mà ta được đọc trong Thần Điêu
Đại Hiệp của Kim Dung.
Mãi
đến thế kỷ 13, Mông Cổ mới chiếm được Đại Lý, và tiếp theo sau, nhà Minh đã duy
trì quyền kiểm soát vùng đất này và lập ra tỉnh Vân Nam. Một lần nữa người Hán
lại cám ơn quân xâm lăng Mông Cổ. Nếu không có Hốt Tất Liệt và Ngộ Lương Hợp Đài (Uriyangkhadai) thì ngày nay nước
Đại Lý có thể vẫn còn tồn tại.
Người
Hán định tiến xa hơn nữa xuống Miến Điện, nhưng thời tiết khắc nghiệt, địa thế đất
đai khó di chuyển với phần cuối cùng của dãy Hỷ Mã Lạp Sơn nên đành chịu thua.
[1] Bài này thấy có một sự châm
biếm. Chỉ có quan to như Phiêu Diêu Tướng Quân Hoắc Khứ Bệnh-霍去病, mới được ghi công, còn các
người cấp nhỏ thì muôn đời vẫn là tiểu tốt vô danh. Đúng là: “Nhất tướng công
thành vạn cốt khô.”
No comments:
Post a Comment