II-
Bành Trướng lãnh Hải (tt)
Khi bàn tới sự bành trướng lãnh hải của Trung Quốc
thì chắc chắn phải nói Biển Đông. Và bàn tới Biển Đông thì không thể không nói qua về Hoàng và Trường Sa. Vì
vậy ta tìm hiểu địa lý, lịch sử của hai quần đảo này. Tôi định viết một bài về
các quần đảo này, song thấy trên Wikipedia có viết nên trích một đoạn để bạn đọc
cùng xem. Tôi chỉ trích một vài phần đưa ra các dẫn chứng về vị trí và lịch sử
của đảo. Sau đó, tôi sắp xếp, cùng phân mục hay bỏ bớt để
bạn đọc dễ theo dõi mà thôi.
Trước khi đăng bài viết trên
wikipedia, tôi cũng xin nhắc lại một điểm mà quốc tế chấp nhận. Khoảng cách một
nhóm đảo đến một quốc gia là dựa vào đảo mà quốc gia ấy có sự sinh hoạt đến hòn
đảo gần nhất của nhóm. Vì thế, VN ta lấy khoảng cách từ đảo Tri Tôn của Hoàng Sa tới
đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi ) và Trung Quốc lấy đảo Lăng Thuỷ Giác thuộc Hải Nam.
Huyện Lý Sơn,
còn gọi là Cù Lao Ré, là huyện đảo
được tách ra từ huyện Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi. Diện tích của huyện là khoảng 9,97 km², nhưng dân số lại lên đến con số hơn 20.460 người. Gồm 3
đảo: đảo Lớn (Lý Sơn, cù lao Ré), đảo Bé (cù lao Bờ Bãi) ở phía Bắc đảo Lớn, và
hòn Mù Cu ở phía Đông của đảo Lớn. Hòn đảo là vết tích còn lại của một núi lửa
với 5 miệng, được hình thành cách đây 25-30 triệu năm. Các mạch nước ngầm nóng,
dưới chân núi lửa, cung cấp nhiệt năng để sản xuất điện phục vụ sinh hoạt cho
Lý Sơn. Do đó, khi nhìn vào bản đồ tổng quát, ta thấy Hoàng Sa gần
đảo Hải Nam hơn vì huyện Lý Sơn ta không thấy được.
Các đảo chính trên Biển Đông:
Quần đảo Hoàng Sa
Đăng bài viết trên Wikipedia:
Hoàng Sa (黄沙, Paracel Islands), có nghĩa là
"cát vàng", là tên Người
Việt đặt cho quần
đảo này, còn người
Trung Hoa gọi quần đảo
này với những tên gọi là: Trung văn giản thể: 西沙群岛; phồn thể: 西沙群島; bính
âm: Xīshā
qúndǎo, Hán-Việt: Tây Sa
quần đảo.
Từ xưa quần đảo này đã mang tên là Bãi Cát Vàng
hay Cồn Vàng. Vì có vô số hòn đảo, hòn đá, cồn đụn, bãi cạn lúc nổi lúc
chìm theo với mực nước thủy triền lên xuống nên số lượng đảo tùy theo cách đếm
mà kể là nhiều hay ít. Giáo sư Sơn Hồng Đức cho số lượng là 120 đảo; sách cổ
Việt Nam trong những thế kỷ trước đây cho biết có 130 đảo.
Trong cuốn sách De la Cochinchine, Tableau
(Taberd) viết: "Beaucoup plus loin de la côte, en face de Hué, est
l’archipel des Paracels ou de Kat-vang, rempli d’écueils. Enfin, les
redoutables bancs de Macclesfield se trouvent à l’est des Paracels."
(Xa hơn kể từ phía bờ biển, ở phía trước
của Huế là Paracels
hoặc Kat-vang, đầy đá ngầm. Cuối cùng, bãi ngầm Macclesfield đáng sợ nằm ở phía đông của Paracels)
Trước năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa còn Trung Quốc kiểm soát
phần còn lại. Từ năm 1974 đến nay, Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng
Sa đồng thời tuyên bố đây là lãnh thổ của họ. Chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa
vẫn đang là chủ đề tranh luận giữa Trung Quốc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
A- Địa lý tự nhiên
Về khoảng cách đến đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần
Việt Nam hơn. Cụ thể, khoảng cách từ đảo Tri
Tôn tới đảo Lý
Sơn (15°22'B
109°07'Đ) là 123 hải lý. Nếu lấy toạ độ của cù lao Ré (tên cũ của Lý Sơn) là
15°23,1'B 109°09,0'Đ từ bản tuyên cáo đường cơ sở của nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (ngày 12 tháng 11 năm 1982) thì khoảng cách đến bờ Lý Sơn thu
ngắn lại dưới 121 hải lí. Ngoài ra, khoảng cách từ đảo Tri Tôn này đến mũi
Ba Làng An (15°14'B
108°56'Đ) thuộc đất liền Việt Nam là 135 hải lí. Trong khi đó, khoảng cách từ đảo
Hoàng Sa đến Lăng Thuỷ
giác (Trung văn giản thể: 陵水角; bính
âm: Língshuǐ
jiǎo) thuộc đảo Hải
Nam của Trung Quốc
là 140 hải lí. Khoảng cách từ Hoàng Sa tới đất liền lục địa Trung Quốc tối
thiểu là 235 hải lí. Nếu Trung Quốc dùng rạn đá ngầm (đá Bắc) làm chuẩn
để đo đến bờ đảo Hải Nam tại Lăng Thuỷ giác thì khoảng cách là 112 hải
lí, nhưng do đá ngầm không có giá trị như đảo trong việc chuẩn định ranh giới
nên lí lẽ này không thuyết phục.
·
Những người đánh cá Việt Nam sống trên các đảo tuỳ theo
mùa nhưng từ bao giờ thì không thể xác định được. Những người đánh cá từ các
quốc gia láng giềng khác nhau thường xuyên lui tới đảo này trong hàng thế kỉ và
những người đi biển có nguồn gốc ở xa hơn (người Ấn
Độ, Ả
Rập, Bồ
Đào Nha, Tây
Ban Nha, Hà Lan) đã biết và
nói về các đảo này từ lâu. Trong số đó, có các nhà hàng hải Pháp xuống tàu từ
cảng La Rochelle, ngày 7 tháng 3 năm 1568 cùng với các
nhà bác học dòng Tên đi Viễn Đông đã đến Hoàng Sa.
·
B-
Lịch sử:
1-
Thời Nguyễn:
Đầu thế
kỉ 17: Chúa
Nguyễn tổ chức khai
thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần
đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài
nguyên của đảo và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm. Theo Phủ biên tạp lục (1776) của Lê
Quý Đôn thì: "Phủ
Quảng Ngãi huyện Bình
Sơn có xã An Vĩnh
ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn
130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia phải đi một ngày hoặc
vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngot. Trong đảo có bãi cát vàng
dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy... Các thuyền
ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ
Nguyễn đặt đội Hoàng
Sa 70 suất, lấy người xã
An Vĩnh sung vào, cắt
phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhân giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5
chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo
ấy. Ở đây tha hồ
bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu ([nước ngoài bị đắm vì
bão]),... Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú
Xuân để nộp,... Họ
Nguyễn đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình
Thuận, hoặc người xã
Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi,..., cho đi thuyền câu nhỏ ra
các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà
Tiên,..., cũng sai
cai đội Hoàng Sa kiêm quản... Hoàng Sa gần phủ Liêm Châu đảo
Hải Nam, người đi
thuyền có lúc gặp thuyền cá Bắc
Quốc,...". Lịch triều hiến chương loại chí viết: "Xã
An Vĩnh, huyện Bình Dương ở gần biển. Ngoài biển, phía Đông Bắc có đảo [Hoàng
Sa] nhiều núi linh tinh, đến hơn 130 ngọn núi. Đi từ núi [chính] ra biển ([tức
sang các đảo khác]) ước trừng một vài ngày hoặc một vài trống canh. Trên núi có
suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước 30 dặm, bằng phẳng rộng
rãi... Các đời chúa [Nguyễn] đặt
đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh, thay phiên nhau đi lấy hải vật. Hàng
năm, cứ đến tháng 3, khi nhận được lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở
5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy ([tức Hoàng Sa])... Đến
tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn (tức cửa Thuận An) đến thành Phú
Xuân, đưa nộp."
C-
Năm 1686: (năm Chính
Hòa thứ 7) Đỗ Bá
Công biên soạn Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An
Nam Lộ trong sách Thiên Hạ Bản Đồ. Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được
vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng: “Giữa biển có một dải
cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm… Họ Nguyễn mỗi năm và
cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng
bạc, tiền tệ, súng đạn…”, còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú
rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên
đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện
Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa.
D-
Năm 1695: nhà sư Thích
Đại Sán (1633 - 1704, hiệu Thạch
Liêm, quê ở tỉnh Giang
Tây, Trung
Quốc, đến Phú
Xuân theo lời mời
của chúa Nguyễn Phúc Chu- Điều này chứng tỏ hải đảo thuộc VN) đã nhắc đến
địa danh "Vạn lí Trường Sa" ngoài Biển Đông (ám chỉ quần đảo Hoàng
Sa) trong quyển 3 của tập sách Hải ngoại kỉ sự. Trích một đoạn sách do
Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột (Viện đại học Huế - Ủy ban Phiên dịch Sử liệu
Việt Nam, 1963) dịch: "Khách có người bảo: mùa gió xuôi trở về Quảng
Đông chừng vào độ
nửa tháng trước sau tiết lập thu; chừng ấy, gió tây nam thổi mạnh, chạy một lèo
gió xuôi chừng bốn năm ngày đêm có thể đến Hổ
Môn. Nếu chờ đến
sau mùa nắng, gió bấc dần dần nổi lên, nước chảy về hướng đông, sức gió nam
yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về đông, lúc ấy sẽ khó giữ được sự ổn
tiện vậy. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ đông bắc qua
tây nam; đống cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển;
mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm vào ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm
dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn lí Trường Sa,
mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; Nếu thuyền bị trái gió trái nước tất vào, dầu
không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy
cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời Quốc vương
trước, hằng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc
khí cụ của các thuyền hư tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng
đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng
mạnh, sợ có hiểm hoạ Trường Sa."
E-
Năm 1698: Quần đảo trở
nên nổi tiếng trong các biên niên sử hàng hải với vụ đắm tàu Amphitrite
dưới thời vua Louis XIV trong khi đi từ Pháp sang Trung Quốc.
F-
Năm 1753: Có 10 người
lính của Đội Bắc Hải (của Nhà Nguyễn) đến quần đảo
Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn
bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền
Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính Việt Nam
về. Lê Quý Đôn viết: "Tôi đã từng thấy
một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận
Hóa nói rằng: năm Càn
Long thứ 18 (1753),
có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng
Ngãi nước An Nam, một ngày
tháng 7 đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm
kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng,
quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán...".
H-
Năm 1835: Vua Minh
Mạng cho xây đền,
đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều
nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên
phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người
Pháp vào Đông Dương.
A-
Năm 1847-1848: Quản lý hành
chính các đảo được duy trì nhằm giúp đỡ các
cuộc hải trình và cũng để thu thuế ngư dân trong vùng.
Bản đồ Biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận
quần đảo Hoàng Sa dưới tên De Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles,
có 2 nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và
vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa (萬里長沙) của Đại Nam nhất thống toàn đồ).
2-
Thời Pháp thuộc
Trong An Nam Đại Quốc Họa Đồ (do Giám mục
Taberd (Tabula) vẽ năm 1838) có vẽ một góc của quần đảo Hoàng Sa (rìa phía phải
bản đồ) và chú thích bằng dòng chữ cái La tinh (chữ viết tiền thân của chữ viết
tiếng
Việt hiện đại):
"Paracel seu Cátvàng".
Bia chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam thời Pháp
thuộc
Bia chủ quyền
Hoàng Sa của Việt Nam thời Pháp thuộc dựng năm 1938 tại đảo
Hoàng Sa của quần đảo
Hoàng Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa (Paracels)
liên tục từ năm 1816 (niên hiệu Gia Long thứ 14) đã
thuộc chủ quyền của vương quốc An Nam (thời độc lập, quốc hiệu Việt Nam), cho
đến thời điểm dựng bia năm 1938 (thời Pháp thuộc, Indochine française).
Trên bia ghi:
"République française
Royaume d'Annam
Archipel des Paracels
1816 - Île de Pattle-1938"
nghĩa là:
Cộng hoà Pháp
Quần đảo Hoàng Sa
1816 - Đảo Hoàng Sa-1938
·
Năm 1884: Hòa ước Patenôtre 1884 buộc triều
đình Huế chấp nhận quy
chế độ bảo hộ ở Trung và Bắc
Kỳ.
·
1881-1884: người Đức tiến hành nghiên cứu có hệ thống
tình hình thủy văn của quần đảo Hoàng Sa mà không có yêu sách nào về chủ quyền.
·
1895 – 1896: Vụ Bellona và Imeji Maru. Hai
chiếc tàu Bellona của Đức và Imeji
Maru của Nhật vận chuyển
đồng bị đắm ở quần đảo Hoàng Sa; một chiếc bị đắm năm 1895 và chiếc kia
chìm năm 1896 ở nhóm đảo An
Vĩnh. Ngư dân từ đảo Hải Nam ra mót lượm kim loại ở khu vực hai chiếc tàu bị
đắm khiến công ty bảo hiểm của hai con
tàu với trụ sở ở Anh gửi thư khiển
trách nhà chức trách Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa trả lời là Trung Hoa
không chịu trách nhiệm, vì Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, và
cũng không phải của An Nam, và về hành chính các đảo đó không được sáp nhập vào
bất cứ một huyện nào của đảo Hải Nam và không có nhà chức trách đặc biệt nào
"phụ trách về an ninh trên các đảo đó".
·
Năm 1899: Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer đề nghị chính
phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng không thành vì thiếu ngân sách
·
Đầu năm 1907: Nhật
Bản chiếm Đông Sa (Pratas) làm cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung
Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông.
·
Tháng 5 năm 1909: Tổng đốc Lưỡng Quảng (nhà Thanh, Trung
quốc) Trương Nhân Tuấn phái đô đốc Lý
Chuẩn đem 3 pháo
thuyền ra thăm chớp nhoáng (24 giờ) một vài đảo trên quần đảo Hoàng Sa rồi về.
Pháp không có một sự phản kháng nào.[
·
Năm 1920: Công ty Mitsui Busan Kaisha (Nhật) xin phép
Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa. Pháp từ chối.
·
Bắt đầu năm 1920: Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu
trên đảo.
·
8 tháng 3 năm 1921: Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai
quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp.
·
30 tháng 3 năm 1921: Thống đốc quân sự Quảng Đông cho
biết là Chính phủ quân sự miền Nam Trung Quốc ra quyết định sáp nhập về mặt
hành chính quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam. Nước Pháp
không phản đối vì chính phủ Quảng Đông không được chính quyền trung ương Trung
Quốc và các cường quốc công nhận. Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung
Quốc và Pháp về chủ quyền
trên quần đảo Hoàng Sa, và từ thập niên 1930 trên quần đảo Trường Sa.
·
Bắt đầu từ năm 1925: Tiến hành những thí nghiệm khoa học
trên đảo do Tiến sĩ A.Krempf, Giám đốc Viện Hải dương học Nha Trang tổ chức
thực hiện trên tàu lưới kéo De Lanessan. Sau đó, tàu hải dương học này
lại thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu lần nữa vào tháng 7 năm 1927.
·
Năm 1929: Phái đoàn Perrier Rouville đề nghị xây 4 hải
đăng tại 4 góc quần đảo. Từ đó, nhiều chiến hạm Pháp đã tiến hành khảo sát
Hoàng Sa: Thông báo hạm "La Milicieuse" (1930),
"L’Incosntant" (tháng 3 năm 1931), pháo hạm "Aviso" (tháng
5 năm 1932).
·
Năm 1930: Ba tàu Pháp, La Malicieuse, L’Alerte
và L’Astrobale, chiếm quần đảo Trường Sa và cắm cờ Pháp trên quần đảo
này.
·
Năm 1931: Trung Hoa cho đấu thầu việc khai thác phân chim
tại quần đảo Hoàng Sa, ban quyền khai thác cho Công ty Anglo-Chinese
Development. Ngày 4
tháng 12, chính phủ
Pháp đã gửi một thông điệp cho công sứ quán Trung Quốc tại Paris về yêu sách
các đảo.
·
Trong suốt các năm 1931-1932, Pháp liên tục phản đối việc
Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 24 tháng 4 năm
1932, Pháp tiếp tục phản đối ý đồ khai thác phân chim ở Hoàng Sa của Trung
Quốc.
·
Năm 1932: Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền
lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa. Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa
Thiên.
·
Năm 1932, Đông Dương thuộc Pháp (Indochine
française) sáp nhập quần đảo vào lãnh thổ của mình. Pháp lần lượt đặt một
trạm khí tượng trên đảo Phú Lâm (tiếng
Pháp: île Boisée)
mang số hiệu 48859 và một trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa (tiếng
Pháp: île de
Pattle) mang số hiệu 48860.
·
Năm 1933: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà
Rịa. Pháp cũng đề nghị với Trung Quốc đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Quốc từ chối.
·
Năm 1935: Lần đầu tiên
Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ thể hiện cả 4 quần đảo trên Biển Đông
là của Trung Quốc. Công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại
giao Pháp năm 1932 còn viết rằng: "Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung
Quốc xa nhất về phía Nam".
·
Năm 1938: Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí
tượng và đưa đội biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Hoàng Sa của quần đảo
Hoàng Sa. Bia khắc dòng chữ: "République française- Royaume d’Annam-
Archipels des Paracels 1816-Île de Pattle 1938" tái khẳng định chủ
quyền Việt Nam từ thời Gia Long. Ngày 30
tháng 3 năm 1938: Vua Bảo
Đại ra đạo dụ tách
quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Ngãi nhập vào tỉnh Thừa Thiên. Đạo dụ ghi rõ: "Các cù lao Hoàng Sa thuộc về
chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các cù lao ấy thuộc về
địa hạt tỉnh Nam - Ngãi. Nay nhập các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa
Thiên". Ngày 15
tháng 6, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié đưa ra Nghị định thành lập một đại lý
hành chính trên quần đảo Hoàng Sa.
·
Năm 1939: Ngày 5
tháng 5, Jules Brévié
đã sửa đổi Nghị định trước và thành lập hai đại lý trên quần đảo Hoàng Sa. Cùng
năm, Đế quốc Nhật Bản tấn công và chiếm giữ quần đảo.
·
Ngày 9
tháng 3 năm 1945: đơn
vị Đông Dương trên quần đảo Hoàng Sa bị Hải quân Nhật bắt làm tù binh.
·
Năm 1946: Nhật Bản bại trận, phải rút lui. Người Pháp đưa
một phân đội bộ binh đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza trở lại Hoàng Sa
nhưng đơn vị này chỉ ở lại vài tháng.
·
Năm 1946: Dựa trên Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam, 4 tàu chiến của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên quần đảo với lý do giải giáp
quân Nhật. Ngày 7
tháng 1 năm 1947, chính phủ
Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố họ đã chiếm giữ quần đảo Tây Sa nhưng thực ra mới
chỉ chiếm đảo Phú Lâm (Woody Island) mà họ gọi là đảo Vĩnh Hưng. Pháp
phản đối và gửi quân Pháp-Việt trở lại đảo.
·
Năm 1947: Ngày 17
tháng 1, pháo hạm Le
Tonkinois của Hải quân Pháp đến quần đảo Hoàng Sa để đòi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đây. Khi yêu cầu này bị từ
chối, quân Pháp bèn đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam chiếm giữ đảo
Hoàng Sa (Pattle Island). Chính phủ Trung Quốc phản kháng và cuộc thương
lượng được tiến hành từ ngày 25
tháng 2 đến ngày 4
tháng 7 ở Paris. Tại
đây, Trung Quốc đã không chấp nhận việc sử dụng Trọng tài quốc tế giải quyết do
Pháp đề xuất. Ngày 1
tháng 12, Tưởng Giới Thạch ký một sắc lệnh đặt tên Trung Quốc cho
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
2-
Thời Quốc gia Việt Nam
·
Ngày 14
tháng 10 năm 1950: Chính phủ
Pháp chính thức chuyển giao quyền kiểm soát quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ Quốc gia Việt Nam, do Bảo Đại đứng đầu.
·
Ngày 6 tháng 9 năm 1951: Tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản, vốn không
chính thức xác định rõ các quốc gia nào có chủ quyền trên quần đảo, Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần
Văn Hữu tuyên bố rằng
cả quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam, và
không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị. Tuyên bố
này nhằm lợi dụng tất cả mọi cơ hội minh định trên diễn đàn quốc tế xác nhận
chủ quyền đã có từ lâu đời trên quần đảo Spratlys và Paracels của nước Việt
Nam, để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này. Tại hội nghị này, đại
biểu Liên
Xô đã đề nghị
trao hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, nhưng đề nghị này đã bị
bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và văn kiện của hội nghị ký ngày 8
tháng 9 năm 1951 chỉ ghi về hai quần đảo là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền,
danh nghĩa và đòi hỏi đối với hai quần đảo".
3-
Thời Việt Nam Cộng hòa
·
Năm 1954 - Hiệp định Geneva quy định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới
quân sự tạm thời (bao gồm cả trên đất liền và trên biển). Quần đảo Hoàng Sa nằm
ở phía Nam vĩ tuyến 17, được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam (quốc trưởng Bảo
Đại đứng đầu) quản
lý.
·
Ngày 26 tháng 10 năm 1956: Quốc hội Lập hiến Quốc gia
Việt Nam chính thức ban hành Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa kế thừa Quốc gia
Việt Nam quản lý quần đảo Hoàng Sa theo đúng công pháp quốc tế. Riêng hai đảo
lớn nhất là Phú Lâm và Linh Côn đã bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa quân ra
đóng trước khi quân đội Việt Nam Cộng hòa ra đóng quân. Việt Nam Cộng hòa đã
đảm nhiệm việc quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng
trách nhiệm mà Hiệp định Genève năm 1954 quy định.
·
Trong thời gian này, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã luôn khẳng
định và duy trì các quyền chủ quyền của mình một cách liên tục và hoà bình đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các hoạt động nhà nước.
·
Ngày 1
tháng 6 năm 1956: Ngoại trưởng Việt Nam Cộng
hoà Vũ
Văn Mẫu xác nhận lại
chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo.
·
Ngày 22
tháng 8 năm 1956: Một
đơn vị hải quân Việt Nam Cộng hòa cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia
đá.
·
Năm 1956, Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ phía Đông quần đảo
Hoàng Sa bao gồm Phú Lâm và Linh Côn
·
Ngày 4
tháng 9 năm 1958: Thủ tướng
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu
Ân Lai công bố quyết
định của Chính phủ Trung Quốc nới rộng lãnh hải ra 12 hải lý, có đính kèm bản
đồ đường ranh giới lãnh hải tính từ lục địa và các hải đảo thuộc Trung Quốc
trong đó có Hoàng Sa và Trường
Sa.
·
Ngày 14
tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng Chu
Ân Lai với nội dung:
"Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên
bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về
hải phận của Trung Quốc". Công hàm này cũng đăng trên báo Nhân Dân ngày 22
tháng 9 cùng năm.
Ngoài ra, sau này, Trung Quốc cũng đã nêu một số tài liệu khác mà họ cho là
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phổ biến để làm bằng cớ về sự thỏa thuận nhượng biển
của Hà Nội. Theo báo Đại Đoàn Kết, một tờ báo chính thống của nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì, Bắc
Kinh (tức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đã diễn giải
công hàm của Phạm Văn Đồng một cách xuyên tạc, khi nội dung công hàm không đề
cập đến Hoàng Sa và Trường Sa, không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với 2 quần đảo này,
mà chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, một hành động ngoại giao
hữu nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với Bắc Kinh trong bối cảnh căng
thẳng giữa Bắc Kinh với Đài
Loan (tức Trung Hoa Dân Quốc) đang gia tăng ở eo biển Đài Loan. Về phương diện luật pháp quốc tế,
Hoàng Sa và Trường Sa, vào thời điểm 1958-1975, không thuộc quyền quản lý của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên chính phủ này không có nghĩa vụ và quyền hạn
hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này. Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc sự
quản lý của Việt Nam Cộng hòa, nên trong tranh chấp 2 quần đảo này
vào thời điểm năm 1958 đến năm 1975, lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được xem như của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng không đưa ra được chứng cớ, cũng như nội dung cụ thể
về "bản tuyên bố ngày 4-9-1958" của chính phủ CHND Trung Hoa
·
Ngày 13 tháng 7 năm 1961: Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh số 174 NV, trong đó
ấn định: "Quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam. Một đơn vị hành chánh
xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải
trực thuộc quận Hòa Vang. Xã Định Hải đặt dưới quyền một phái viên hành
chánh".
·
Ngày 21 tháng 10 năm 1969: Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa ký nghị định số 709-BNV/HCĐP để "Sáp nhập xã Định Hải thuộc quận
Hòa Vang tỉnh Quảng Nam vào xã Hòa Long cùng quận".
·
CHND Trung Hoa chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ ngày 19
tháng 1 năm 1974 khi quân đội
của họ tấn công quân đồn trú Việt Nam Cộng hòa và chiếm các đảo phía tây trong
trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974.
·
Ngày 20 tháng 1 năm 1974: Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam) đã ra bản
tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc.[37]
·
Ngày 14 tháng 2 năm 1974: Việt Nam Cộng hòa ra tuyên cáo xác định chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
·
Năm 1975: Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa công bố một bạch thư (sách trắng)
trình bày những chứng cớ lịch sử và xác định chủ quyền pháp lý của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
4-
Thời Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
·
Ngày 2 tháng 7 năm 1976: Việt Nam thống nhất dưới tên gọi
mới Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, với tư cách kế thừa quyền sở hữu
các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước CHXHCN Việt Nam có trách nhiệm
duy trì việc bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đã ban
hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan trực tiếp đến hai quần đảo.
·
Cùng với bản Hiến pháp các năm 1980, 1992, Luật biên giới
quốc gia năm 2003, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày 12 tháng 11 năm 1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của Việt Nam, Tuyên bố của Chính phủ ngày 12 tháng 11 năm 1982
về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam đều khẳng định hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
·
Trong các năm 1979, 1981 và 1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam đều có công bố
các Bạch thư về chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
·
Ngày 9 tháng 12 năm 1982: Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành
huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng.
·
Nghị quyết ngày 6 tháng 11 năm 1996 tại kỳ họp thứ X Quốc
hội khoá IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung
ương.
·
Ngày 23 tháng 6 năm 1994; Quốc hội Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 phê chuẩn Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 có nghị quyết nêu rõ: "Quốc
hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa và chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông
thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn
trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán của các nước
ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi nỗ lực thúc
đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn
định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm
tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực". Quốc hội
nhấn mạnh: "Cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng
Sa, quần đảo Trường Sa với các vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, căn cứ vào những
nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm
1982".
·
Ngày 4 tháng 11 năm 2002: Tại Phnom
Penh (Campuchia), Việt Nam
cùng các quốc gia trong khối ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), đánh dấu một
bước tiến quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề trên biển và duy trì ổn
định ở khu vực.
·
Ngày 21 tháng 06 năm 2012: Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 bỏ phiếu thông
qua Luật Biển, gồm 7 chương, 55 điều. Ngay ở Điều 1 luật đã khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
A- Tổ chức hành
chính
1- Việt Nam
Việt Nam tổ chức quần đảo thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc
thành phố Đà Nẵng.
·
Ngày 15 tháng 6 năm 1932, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị
định số 156/SC, thiết lập đại lý hành chính ở Hoàng Sa (délégation
administrative des Paracels).
·
Ngày 5 tháng 5 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương Jules
Brévié chia quần đảo thành hai đại lý hành chính gồm: délégation du
Croissant et dépendences (đại lý Trăng Khuyết và phụ cận, đặt trụ sở
tại đảo Hoàng Sa) và délégation de l'Amphitrite et dépendences (đại
lý An Vĩnh và phụ cận, đặt trụ sở tại đảo Phú Lâm).
·
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng thống Ngô
Đình Diệm ban hành sắc
lệnh số 175-NV đặt tên là xã Định Hải, quận Hòa
Vang, tỉnh Quảng
Nam.
·
Nghị định số 709-BNV-HC ngày 21 tháng 10 năm 1969 của Thủ
Tướng Chính Phủ Việt Nam Cộng hòa đã sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng
thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Huyện đảo Hoàng Sa, được thành lập từ tháng 1 năm 1997, là một quần
đảo san hô nằm cách thành
phố Đà Nẵng 170 hải
lý (khoảng 315
km), bao gồm các đảo: đảo
Hoàng Sa, đá Bắc, đảo
Hữu Nhật, đảo
Đá Lồi, đảo
Bạch Quy, đảo
Tri Tôn, đảo
Cây, đảo
Bắc, đảo
Giữa, đảo
Nam, đảo
Phú Lâm, đảo
Linh Côn, đảo
Quang Hòa, cồn
Bông Bay, cồn
Quan Sát, cồn
cát Tây, đá
Chim Yến. Huyện đảo
Hoàng Sa có diện tích: 305 km², chiếm 24,29% diện tích thành phố Đà Nẵng.
Ngày 21 tháng 4 năm 2009, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng
ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa nhiệm kỳ 2009-2014 đối
với ông Đặng Công Ngữ. Cùng ngày, thành phố Đà Nẵng cũng tổ chức lễ bổ nhiệm
chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Bộ máy cán bộ chuyên trách của chính quyền huyện
đảo Hoàng Sa sẽ được thiết lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trước mắt,
chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ hoạt động tại trụ sở của Sở Nội vụ Đà Nẵng.
2-
Trung Quốc
Về mặt hành chính, từ năm 1959, chính quyền Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa quy thuộc quần đảo Hoàng Sa vào Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa
và Trung Sa (西南中沙群岛办事处 Tây Nam Trung Sa quần đảo biện sự xứ), đặt dưới quyền quản lý của khu hành chính Hải Nam thuộc tỉnh Quảng
Đông. Đến năm 1988,
khi Hải Nam tách khỏi Quảng Đông để trở thành một tỉnh riêng biệt, Văn phòng
quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa trực thuộc tỉnh Hải
Nam. Ngày 21 tháng
6 năm 2012, Quốc vụ viện Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn thành lập thành
phố cấp địa khu Tam Sa, thay thế Văn
phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Đảo Phú Lâm là nơi đặt trụ sở các cơ
quan của chính quyền nhân dân thành phố Tam Sa
Trung Quốc tuyên bố kế hoạch mở cửa du lịch quần đảo vào
năm 1997, mở rộng những cảng nhỏ ở đảo
Phú Lâm và đảo
Quang Ảnh. Tại Phú Lâm
có một sân bay với đường băng dài 1.200 m.
B-
Các nghiên cứu và tài liệu
Vào thế kỉ thứ 18, bộ sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê
Quý Đôn đã có nói tới
Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác
hai quần đảo này ngay từ thời Lê mạt. Các tài liệu khác nói về chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí được ấn
hành vào năm Minh
Mạng thứ 16 tức là
năm 1834 và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú
(1782-1840). Sách Hoàng Việt địa dư chí có chép:
Quần đảo Hoàng Sa ở ngoài khơi, các vua đời trước đặt ra
đội quân giữ Hoàng Sa gồm 70 người, thường là lấy người xã An Vĩnh (Quảng
Ngãi - huyện Bình
Sơn - phủ Tư
nghĩa) để luôn luôn canh giữ. Hàng năm cứ đến tháng 3 nhận lệnh mang theo lương
thực trong 6 tháng rồi dùng 5 chiếc thuyền ra khơi, đi trong 3 ngày 3 đêm thì đến đảo, đến nơi vừa
canh giữ, vừa đánh cá mà ăn. Vật báu
ở đó rất nhiều, nên đội quân này vừa làm nhiệm vụ canh giữ, vừa khai thác vật
báu. Đến tháng 8 thì về, họ vào Cửa
Eo (Thuận
An) lên tâu nộp ở
thành Phú
Xuân.
Ngoài các sử gia bản xứ, một số các tác giả người Pháp
cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Đức
Giám mục Taberd đã viết trong cuốn sách Địa dư, lịch sử và mô tả mọi dân tộc
cùng với tôn giáo và phong tục của hội (Univer, histoire et description
de tous les peuples, de leurs religion et coutumes) như sau:
Tôi không kể dài dòng về những đảo thuộc Nam Kỳ, nhưng
chỉ nhận xét rằng từ 34 năm nay, người Nam Kỳ đã chiếm cứ nhóm quần đảo
Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, thực là những hòn đảo
nhỏ bí hiểm, gồm những mỏm đá xen lẫn với các bãi cát mà những người đi biển
đều kinh hãi. Tôi không rõ họ có thiết lập cơ sở gì ở đó không, nhưng chắc chắn
rằng Hoàng Đế Gia Long nhất định muốn mở rộng lãnh thổ của Hoàng Triều bằng
cách chiếm quần đảo này, và vào năm 1816, ngài đã long trọng trương lá cờ tại
đây.
Trong tác phẩm Hồi ký về Đông Dương, tác giả Jean
Baptiste Chaigneau cũng ghi rằng vua Gia Long đã chính thức
thu nhận quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816. Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên
toàn cõi Đông Dương, họ cũng tiếp tục lãnh nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các
năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở
đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm đảo An Vĩnh và bị người Trung Hoa đến đánh
cướp. Đại diện người Anh tại Bắc
Kinh đòi nhà
Thanh phải bồi
thường vì có một số đồng được đem về bán tại đảo Hải Nam. Tuy nhiên, chính
quyền nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ quần đảo Hoàng Sa không thuộc
chủ quyền của Trung Hoa.
Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư
năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến đảo Hải Nam.
Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư xuất bản năm
1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo
Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18°13' Bắc".
Sau sự kiện tháng 1 năm 1974, các học giả Trung Quốc tìm
kiếm trong sách cổ, dựa vào các chi tiết liên quan đến biển Đông mà họ gọi là
Nam Hải, để làm bằng chứng cho luận thuyết "các đảo Nam hải xưa nay là
lãnh thổ Trung Quốc" do nhân dân Trung Quốc "phát hiện và đặt tên sớm
nhất", "khai phá và kinh doanh sớm nhất", do Chính phủ Trung
Quốc "quản hạt và hành sử chủ quyền sớm nhất". Đầy đủ nhất có thể kể
đến cuốn Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải nước ta do Hàn Chấn Hoa, một
giáo sư có tên tuổi ở Trung Quốc và nước ngoài, chủ biên (1995-1998), xuất bản
năm 1988. Các ấn phẩm về sau như của Phan Thạch Anh và nhiều học giả Đài Loan
cũng chủ yếu dựa theo cuốn sách này.
Năm 1996, cuốn Chủ quyền trên quần đảo Paracels và
Spratlys của bà Monique Chemilier Gendreau, một luật sư, giáo sư có tên
tuổi ở Pháp và nước ngoài đã làm cho các học giả Trung Quốc bối rối và họ đã
mời bà sang Bắc
Kinh nói là để cung
cấp thêm tài liệu. Bà đã đến Bắc Kinh và đối mặt với mấy chục học giả Trung
Quốc. Bà cho biết học giả Trung Quốc không giải đáp được những vấn đề do bà đặt
ra, không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào có sức thuyết phục.
Ngày 3 tháng 9 năm 1993, trong bài đăng trên tạp chí Window
(Hồng
Kông), tác giả Phan
Thạch Anh đưa ra sự kiện quần đảo Nam Sa được sát nhập vào đảo Nam Hải năm thứ
5 niên hiệu Trinh Nguyên đời nhà
Đường (789) và thủy
quân đời nhà
Nguyên đã đi tuần
quần đảo Nam Sa năm 1293, nhưng khi tạp chí Thông tin khoa học xã hội số
4/1994 của Việt Nam khẳng định và chỉ rõ tài liệu liên quan đến hai sự kiện này
không liên quan gì đến các quần đảo ở Biển Đông thì trong cuốn sách mới xuất
bản về quần đảo Nam Sa năm 1996, tác giả Phan Thạch Anh đã không nhắc đến hai sự
kiện này nữa.
Một trong những nghiên cứu mới nhất được công bố về Hoàng
Sa là luận án tiến sĩ của ông Nguyễn Nhã, đề tài Quá trình xác lập chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bảo vệ ngày 18
tháng 1 năm 2003 (29 năm sau
trận hải chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa) tại trường Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn
Nhã nói: "Với luận án tiến sĩ này, tôi thách thức các nhà nghiên cứu các quyền Hoàng Sa mang tính khoa học được như tôi."[48].
Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ,
do nhà Thanh Trung Quốc in năm 1904, có ghi cực nam lãnh thổ
Trung Quốc năm 1904 là đảo Hải Nam.
Một tấm bản đồ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư bản
đồ" xuất bản năm 1904 dưới thời nhà Thanh được tìm thấy gần đây cũng cho
thấy quần đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc (bản đồ này ghi rõ cực nam của
Trung Quốc là đảo Nam Hải.
No comments:
Post a Comment