Một vài tháng
sau, tôi đã thành thạo, trong việc chèo ghe cũng như chụp cá đối, và hơn hết
việc say sóng cũng mất luôn.
Một buổi hoàng
hôn, như thường lệ, tôi xuống nhà Thắng để chuẩn bị đi hớt đá đối. Thắng vác
cây chèo dài, còn tôi xách giỏ và đèn măng xông, rồi cùng nhau xuống bến ghe ở
trước ty bưu điện, cách nhà Thắng khoảng 200 mét.
Hôm nay, biển tương đối lặng, sóng không cao lắm nên thuyền bập bà bập bềnh. Chúng tôi lo cột chèo và đèn,
chèo ghe ra một đỗi, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, nên chúng tôi neo ghe lại ngồi
chờ.
Hai đứa tôi ngồi: một thằng ở mũi một thằng ở lái, tán ngẫu.
Tôi nhìn về
phương đông, thấy mặt trăng tròn vành vạnh, to như cái nong, đang từ từ nhô lên
khỏi hàng bàng và liễu của Bãi Trước.
Tôi chắc
miệng:
- Lại một
trung thu buồn bã trôi qua. Thắng có mua bánh trung thu cho con Thắng không?
Thắng thở dài:
- Tui nghèo
thấy bà! Không có tiền mua đồ ăn hàng ngày, huống hồ đèn, bánh.
- Nhưng Thắng
còn may mắn là mỗi ngày Thắng còn được về ôm con. Tôi chỉ mong được điều đó
thôi.
Thắng vê một
điếu thuốc rồi hỏi:
- Anh Hai. Bao lâu rồi anh chưa về quê thăm chỉ
và cháu?
Tôi đá chân
vào các ngọn sóng nói:
- Để tính coi.
Hơn sáu tháng rồi Thắng ạ.
- Anh có nhớ
chỉ và cháu không?
- Nhớ lắm. Tôi
ao ước đem vợ con về đây.
Thắng chặc
lưỡi:
- Hà! Chuyện
này khó lắm ta. Trừ phi đội xuồng chèo nhận anh là một ngư phủ hội viên.
Chúng tôi cùng
im lặng suy tư cho thân phận của mình.
Nhìn trăng qua
sương mù tôi lẩm nhẩm vài câu thơ:
No comments:
Post a Comment