Tuesday, December 17, 2013

Đại Việt thắng Nguyên Mông? Bài 37


CHƯƠNG 03 (tt)


 

C- Cuộc xâm lược thứ nhất

Ngay năm 1268, Hốt Tất Liệt muốn đem quân sang đánh Nhật ngay lập tức. Nhưng taị Trung Quốc, Nguyên Mông tìm không đủ quân có thể đi biển và không đủ thuyền bè, nên họ chuyển cánh quân tiên phong sang Cao Ly.

Năm 1273, quân Mông chuẩn bị đánh, nhưng vẫn không thể đủ tiếp liệu để vượt biển. Họ lại quay về Trung Quốc để lấy thêm. Ở phần cuối của chuyện đánh Cao Ly ta đã thấy việc quân Mông bắt dân Cao Ly đóng ghe tầu để đánh Nhật; ấy là vì việc này.

Tranh down load từ bài viết “Relics of the Kamikaze”
của James P. Delgado- Archaeology Institute of America

 
Thông thường trận đánh đầu tiên là trận dò đường, trinh sát và ước lượng sự kháng cự của địch, nên số quân không đông lắm. Tuy nhiên nhiều con số vẫn trái ngược nhau. Theo “Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400.” thì năm 1274, Mông Cổ cho một hạm đội khoảng 900 cái vượt biển đông Cao Ly sang đánh Nhật. Quân số theo sách ấy thì lính Mông chừng 5000 người; lính Cao Ly chừng 6000 đến 8000 hợp với một lực lượng chính gồm 15000 Mông-Hán. Lực lượng này phát xuất từ Pusan (Phú Sơn), Cao ly. Louis G. Perez trong quyển sử của ông về Nhật thì con số là 30000 quân. Quyển “All Under Heaven” cũng công nhận con số này.
Absolut Astronomy.com cũng đưa ra con số tương tự như Stephen Turnbull là 15000 Mông Hán, 8000 quân Cao Ly trên 300 thuyền lớn từ 400 đến 500 thuyền nhỏ. Một đạo quân Mông gồm 20000 người dưới quyền chỉ huy của tướng Mông Hol Don (忽敦). Trong khi ấy tướng Cao Ly Kim Bang-gyong (김방경-金方慶), là người điều khiển quân nước ông trong liên minh Mông- Cao. Hạm đội này rời khỏi Pusan (có tài liệu lại viết Masan) ngày 3 tháng 10 năm 1274, vượt eo biển Tsushima (Đối Mã).
Trong khi ấy một số trang website lại viết số quân lên đến 40000 người.
Để đối phó với cuộc xâm lăng, phía Nhật Bản cũng có chuẩn bị. Kamakura shogunate (hội đồng tướng Kamakura) dưới sự chỉ huy của tướng quân Tokimune (Bakufu) ra lệnh cho dân chúng trên đảo Kyushu phải rời bờ biển phía tây, nơi có thể bị quân Mông- Cao đổ bộ. Đồng thời chuyển quân đội trên đảo về phía tây chuẩn bị tác chiến. Triều đình ở Kyoto cũng dẫn đầu các cuộc cầu nguyện ở các chùa.
Tranh down load từ bài viết của tác giả Lee Wha Rang, trên website:
The Koryo-Mongol Allied Invasion of Japan - The Myth of Kamikaze.
Trong hình ta thấy có trái bom đang phát nổ.
Quân Cao Ly đánh chiếm đảo Tsushima và Komota cùng khi ấy, quân Mông đến đánh chiếm đảo Iki (壹岐島). Cả hai nơi chúng đã tàn phá không nương tay. Sau đó, liên quân Mông- Cao hội ngộ tại đảo Hirado và tiến đến bờ biển Hizen đánh phá. Liên quân tiếp tục thẳng đường đến hải cảng Hanaka (博多灣- ngày nay là thành phố Fukuoka). Nơi đây chúng gặp sự kháng cự mãnh liệt của các võ sĩ đạo (samurai).
 
Ngoài cách đánh đội hình với mưa tên, Mông Cổ cũng còn dùng cả bom phóng ra từ các súng phóng (catapult). Theo Stephen Turnbull đã viết thì một họa sĩ Nhật tên Takezaki Suenaga đã vẽ lại cảnh Mông Cổ có loại súng này, tuy nhiên sách không có hình vẽ[1]. Họa sĩ Takezaki Suenaga vẽ cảnh này sau khi Mông Cổ xâm lăng vài chục năm. Ông Stephen Turnbull cũng viết lại một người chứng kiến tả lại cảnh một những bom được ném ra như sau: Những trái bom sắt cực mạnh được ném ra và lăn xuống đồi như các bánh xe, ầm ầm như sấm động, nhìn giống như các ánh sét (These mighty iron bom were flung and rolled down the hills like cartwheels, sound like thunder and looked like bolts of lightning.)[2]
Theo quyển “The History of Japan”, Trang 30, Louis G. Perez viết: Dưới sự chỉ huy của Hōjō Tokimune, người Nhật đã chống cự mãnh liệt. Lực lượng quân Mông vượt hẳn về kỹ thuật, lại còn dùng trận thế phối hợp phức tạp giữa bộ binh và kị binh, trong khi người Nhật chỉ quen thuộc với lối đánh cá nhân của samurai. Quân Mông Cổ dùng các nỏ cực mạnh và catapult để bắn các trái ban lửa. Người Nhật vẫn còn dùng gươm, giáo và cung dài. (Led by courageous Hōjō Tokimune, the Japanese put up a fierce defense. The Mongol forces were technologically superior, however, employing complex coordinated troop movements of a large infantry and cavalry units, whereas the Japanese were more accustomed to fight individual samurai. The Mongols also used powerful crossbow and catapults that fired exploding fireballs. The Japanese still used swords, spears and longbows.)
Ông Stephen Turnbull cũng dẫn chứng một cảnh một   tướng Mông Cổ trong trận đánh từ một nguồn tin khác: Viên tướng chỉ huy chiếm lấy một địa thế cao và điều khiển các cánh quân tùy theo nhu cầu bằng các trống cầm tay. Nhưng bất kỳ chỗ nào quân Mông chuyển hướng, là cho bom sắt ném tới chúng tôi; làm chúng tôi chóng mặt và rối loạn. Quân lính chúng tôi sợ hết hồn vì các tiếng nổ như sét đánh; mắt họ bị lòa đi; tai họ bị điếc; nên họ không còn phân biệt đâu là đông, đâu là tây. (The commading general kept his position on high ground, and directed various detachments as need with signal from hand drums. But whenever the Mongol took flight, they sent irion bom shells flying at us, witch made our side dizzy and confused. Our soldiers were frighten out of their wits by thundering explosions, their eyes were blinded, their ears deafened, so they hardly distinguish east or west.)[1]
Trên wikipedia có đăng một đoạn sau đây: Khi nghe tin trận đánh thật sự bắt đầu thì ở Kamakura tướng quân Tokimune sợ vô cùng. Ông biết ông phải tìm vị cố vấn đó là thiền sư Bukko. Vị thiền sư nói ông phải ngồi thiền để tìm hiểu xem trong lòng ông có chỗ nào chứa chấp sự hèn nhát không. Sau khi thiền, Tokimune đến gặp lại thiền sư Bukko, nói: “Cuối cùng tôi đã tìm ra một việc vĩ đại nhất trong đời tôi.” Bukko hỏi: “Làm sao ông có thể đối phó với việc ấy?” Tokimune hét lên: “Chiến Thắng (Meanwhile back in Kamakura, Tokimune was overcome with fear when the invasion finally came, and wanted to defeat cowardice, so he asked Bukko (his Zen master) for advice. Bukko replied he had to sit in meditation to find the source of his cowardice in himself. Tokimune went to Bukko and said: "Finally there is the greatest happening of my life." Bukko asked, "How do you plan to face it?" Tokimune screamed "Katsu!" ["Victory!]) Theo sách còn nói khi hét như vậy mắt của Tướng Quân Tokimune quắc lên hình như ông đang đứng trước kẻ thù. Vị thiền sư gật đầu nói “Tốt”. Câu chuyên này được truyền tụng trong binh sĩ; ai nấy đều hăng hái chống giặc.
 Một điểm nữa ta cần nhắc tới là trong thời gian này, người Nhật cũng không có chiến tranh lớn với nước nào, nên kinh nghiệm chiến tranh không có. Nhất là không vị tướng nào của Nhật quen điều khiển vài chục ngàn binh sĩ một lựơt. Bên cạnh đó, người Nhật cũng như người Âu Châu, có thói đánh tay đôi, đúng cách của võ sĩ đạo (Bushido). Đánh kiểu này thì khi lâm trận, một võ sĩ mang kiếm bước ra kêu tên một đối, thủ. Kẻ ấy sẽ tiến ra giữa đấu trường, rồi hai ngừơi đánh cho đến khi giết chết đối phương.
 Trong trận đánh này, các võ sĩ Nhật không thể kêu tên đối thủ, nên họ gọi chức vụ đối phương, nhưng kêu xong thì thấy cả ngàn ngừơi cùng xông lên một lượt. Vì ngôn ngữ bất đồng, nhưng dù có hiểu thì lính Mông cũng chẳng quan tâm tới việc ấy.
Đến chiều tối, này 21 tháng 10, 1274,  quân Mông đẩy lùi các samurai đến thành phố Dazaifu ở sâu trong nội địa và phương nam của Hakata, rồi đốt phá điện Hakozaki.
Rất may cho các chiến sĩ Nhật, Mông Cổ không muốn ngủ đêm trên đất liền mà trở về thuyền nghỉ ngơi.
Đêm hôm ấy, một cơn bão bất ngờ kéo đến với các cơn gió thật mạnh, mà ngừơi Nhật gọi là Kamikaze (神風 Thần Phong hay gió thần). Trận bão tàn phá các con thuyền chở đầy lính Mông, làm thiệt hại nặng nề. Quân Mông bắt buộc phải quay về lại Pusan, Cao Ly. Theo Stephen Turnbull thì quân Mông bị chết 13000 lính, khoảng phân nửa tổng số quân mà chúng mang sang. Như vậy cuộc xâm lăng thứ nhất của Nguyên Mông vào đất liền của đảo chính Kyushu kéo dài được một ngày.


[1] Trang 66, Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400.


[1] Có thể là hình vẽ mà tôi down load từ internet trang trước.
[2] Trang 66, Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400.

No comments:

Post a Comment