Thursday, April 3, 2014

CHIẾN HẠM 5


LỊCH SỬ CHIẾN THUYỀN TIỀN DREADNOUGHT (tt)

Tàu ngầm- Ngư lôi (Torpedo)

Năm 1886, ngư lôi (torpedo) thật sự ra đời làm các chuyên gia quân sự suy nghĩ việc thay đổi quan niệm về các chiến thuyền. Thật ra torpedo có một lịch sử lâu dài. Năm 1275, một kỹ sư người Syria tên: Hassan al-Rammah đã mô tả lại một mũi tên tự chạy trên nước và có khả năng nổ tung, đốt địch quân. Nhưng con người chưa có đủ trình độ kỹ thuật làm ra vật này, nên vũ khí ấy hầu như bị lãng quên.

Tuy nhiên, nguyên nghĩa của torpedo có nghĩa là thủy lôi mà thôi, tức là các loại bom dưới nước. Đến thế kỷ 19, khi một kỹ sư ngừơi Anh tên Robert Whitehead thiết kế thành công một vật trang bị khí ép để tự di chuỷên, có chứa chất nổ. Vật này đã phá vỡ một muc tiêu cách điểm ban đầu 640m. Kể từ đó, chữ ngư lôi dùng để chỉ cho các bom tự chạy dưới nước và tự nổ để phá hủy các thuyền địch quân (1866). Trong thời gian đầu các ngư lôi chạy bằng khí ép, sau mới thay bằng động cơ điện. Nhưng ngư lôi vẫn chưa thấy một hiểm họa thật sự, nên quan niệm ấy vẫn chưa là cấp bách.

Kế tiếp theo là sự xuất hiện của tàu ngầm.

Loại tàu này cũng xuất hiện đầu tiên bên Anh. Năm 1620 Cornelius Drabbel, một nhà phát minh người Hòa Lan, làm quan thái phó lo việc dạy cho hoàng tử, công chúa trong Hoàng Cung Anh, đã làm ra một vật bán chìm, chèo trên sông Thames. Thật ra ông này đã dựa vào lý thuyết của nhà toán học người Anh William Bourne để chế tạo vật ấy.

Tầu bán ngầm của Cornelius Drabbel

Một cách tổng quát, muốn làm một tàu ngầm, kỹ sư dựa vào nguyên lý Archimed về vật chìm và định lý sức ép của Pascal để thiết kế.

Theo nguyên lý Archimede thì một vật khi được thả vào chất lỏng (và trường hợp này là nước biển hay nước ngọt) thì trọng lượng vật bằng trọng lượng khối nước nó choán. Vậy nếu trọng lượng 1 vật nặng hơn khối lượng nước nó choán thì vật ấy sẽ chìm. Còn ngược lại thì vật ấy nổi lên. Muốn thỏa mãn nguyên lý Archimede, các kỹ sư đã làm con tàu ngầm có hai vỏ. Giữa hai vỏ là khoang kín, nếu muốn tầu lặn xuống, ngừoi ta bơm nứơc vào khoang kín, để tàu nặng thêm và muốn tàu nổi lên, người ta bơm nước ra. Tầu có khả năng lặn sâu bao nhiêu để khỏi bị vỡ thì người thiết kế phải tính xem vỏ tầu chịu được sức ép là bao nhiêu theo nguyên lý sức ép của Pascal.

Nói một cách đơn giản định lý sức ép của Pascal thì sức ép của nước lên một vật bằng trọng lượng cột nước bên trên vật ấy. Giả sử một vật có diện tích 1m2 chìm trong nước ngọt thuần túy ỏ độ sâu 1 m thì chịu 1 áp suất 1 tấn. Nếu vật ấy ở độ sâu 100m thì chịu sức ép 100 tấn. Dựa vào đó, mà kỹ sư phải tính thiết kế như thế nào để tàu không vỡ.
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TẦU NGẦM
Mãi đến giữa thế kỷ 18, hàng chục bằng phát minh đã được phát cho nhiều nhà khoa học, kỹ sư ở Anh về tiềm thủy đỉnh. Tuy vậy chưa một chiếc thuyền nào được công nhận là thật sự tiềm thủy đỉnh cả.
Mãi tới năm 1775 thì một người Mỹ tên David Bushnell thiết kế được một chiếc tầu ngầm chứa một người, dùng tay quay động cơ. Đây là chiếc đầu tiên mà người ta công nhận là tầu ngầm thật sự. Nó có thể hoạt động độc lập dưới đáy sông. Năm 1880, Pháp cho chế tạo chiếc tầu ngầm mang tên Nautilus, thiết kế bời Robert Fultom- Một người Mỹ. Nước Anh cũng theo gót Pháp với thiết kế này. Nhưng cả hai cùng thất bại.
Năm 1885, trong một cuộc đàm luận giữa một giáo sỹ và còn là nhà phát minh người Anh tên George Garrett với nhà kỹ thuật Thorsten Nordenfelt- người Thụy Điển- đã đưa ra một tầu lặn thực dụng. Rồi từ cuộc đàm thoại ấy chiếc Nordenfelt I ra đời. Chiếc này nặng 56 tấn, dài 19.5 m,  trang bị một ngư lôi và tầm hoạt đông 240 km. Chiếc Nordenfelt I chạy trên mặt nước với động cơ hơi nước, cùng khi chạy máy sẽ ép không khí vào một buồng kín. Lúc cần, ngừơi điều khiển tắt máy để lặn. Lúc lặn, không khí ép được thải ra phía sau làm tàu lặn chạy về phía trước. Nước Hy Lạp đã mua chiếc này để chống lại đế quốc Thổ Ottoman.
Cùng thời gian, ống phóng ngư lôi (torpedo tube) ra đời. Đến lúc này các chiến thuyền mới thấy cái nguy hiểm của ngư lôi.
Tiếp theo các tàu ngầm Nordenfelt II,  Nordenfelt III,  Nordenfelt IV đã được sản xuất  trong các năm tiếp theo. Mỗi chiếc Nordenfelt loại mới này dài 30m và có hai ống phóng tropedo. Trớ trêu thay, hải quân Ottoman lại mua Nordenfelt II và III. Riêng chiếc  Nordenfelt IV thì nước Nga đã mua, nhưng chẳng may bị mắc cạn, nên cuối cùng bị lọai bỏ.
Cùng thời gian này, con người khám phá ra điện, rồi các động cơ điện được sản xuất. Kể Năm từ 1880 nguồn năng lượng tin cậy đã làm cho kỹ nghệ tàu ngầm tăng tiến rõ rệt. Việc này dễ hiểu vì công cơ hơi nước thì cần không khí nên không thể lặn. Động cơ sức ép không khí thì rất dễ hết năng lực. Chỉ có điện là thỏa nãm nhu cầu với những pin điện. Các nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha đều sản xuất các tàu ngầm kiểu này. Tuy vậy, sự áp dụng thực tiễn của tàu ngầm phải đợi tới thế kỷ sau.
Kể từ năm 1876, nhà phát minh John Phillip Holland làm thử một mẫu tàu ngầm, năm sau ông làm một mẫu khác đúng kích thước, với động cơ máy nổ lúc nổi và pin điện lúc lặn. Sau một chuỗi năm dài thừ nghiệm, ngày 17 tháng 5, 1896 ông đã hạ thủy chiếc Holland VI tại New Jersey. Mỹ đã mua chiếc này và đây là chiếc tàu ngầm đầu tiên của hải quân Hoa Kỳ. Hải quân Hoa Kỳ đã đặt tên chiếc này là USS Holland, năm 1900.
Sau thời gian ấy, Anh cho sản xuất tàu ngầm dựa vào mẫu Holland năm 1901-1903, còn Pháp giới thiệu tàu ngầm Aigrette năm 1904.
Tuy nhiên, tàu ngầm thực sự tham chiến là ngày 29 tháng 5, 1905 khi hạm đôi Nga vượt eo biển Đối Mã (Tsushima), nằm giữa Nhật và Đại Hàn. Các tàu ngầm Nga đã bắn thủy lôi vào các tầu Nhật và bị bắn trả, nên rút lui.
Thế kỷ 20 các máy diesel-điện được giới thiệu và tất cả tàu ngầm đều sử dụng các động cơ này.
Tàu ngầm hay tiềm thủy đỉnh là một loại chiến tranh du khích vì khả năng làm mù mắt đối phương. Nó lặn sâu trong lòng biển rồi dùng tiềm vọng kính quan sát chiến trường. Dù sao chăng nữa nó có thể bị phát hiện lúc di chuyển với tiềm vọng kính đang quan sát mặt biển. Lúc di chuỷên thì cột tiềm vọng kính rẽ nước làm địch quân có thể nhận ra.

No comments:

Post a Comment