Tuesday, December 9, 2014

Bài thơ khi đi học tập


Tạ Từ


 

Tay sách, vai mang túi hành trang.           

Chân cất bước đi, dạ bàng hoàng.          

Quay đầu nhìn lại con cùng vợ.                

Nàng vẫn ôm con, vẻ ngỡ ngàng.             

      Nhà khuất xa dần sau hàng cây.               

      Con chim lẻ bạn khóc xa bầy.                  

      Hình dáng em buồn anh nhớ mãi.            

      Tựa đá vọng phu dưới trời mây[1].               

Thuyền tách bến đi, đi đến đâu?              

Dòng sông cuộn nước đục mầu nâu.        

Đưa ta đi đến phương nào nhỉ?           

Ta có nào đâu mạch phong hầu [2].            

Nàng biết rằng không, anh ở đây?

Một nơi, gai kẽm mắc giăng đầy.

Nào phải quan san[3] chia đôi ngả? 

Lòng anh chỉ ước mộng sum vầy.

Con lớn chừng nào? Có ngoan không?

Cầu xin em mãi khắc ghi lòng.

Nuôi con khôn lớn chờ anh nhé.

Nằm mộng gặp em ở bến sông.

Đêm nay trăng sáng ở đầu giường.

Ngỡ đâu mặt đất tỏa hơi sương[4] .

Khi nào anh sẽ về quê nhỉ?    

Bồng bế con thơ thỏa nhớ thương.

                                       VHKT- 1975- Trại học tập Thơm- Bến Tre



[1] Đây là hòn Vọng Phu ở làng Nhồi, Huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Nơi tôi đã sống thủa thơ ấu.
 
[2] Tìm công danh. Lấy nghĩa từ câu cuối cùng trong bài “Khuê Oán” của thi sĩ Vương Xương Linh đời Đường;
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu.
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc.
Hối giao phu tế mạch phong hầu.
Có nghĩa là:
Phòng khuê thiếu phụ quên sầu.
Ngày xuân ngưng điểm, lên lầu dạo chơi.
Nhìn mầu dương liễu ngàn nơi.
Buồn cho phu tế vẫn nơi phong hầu.
 
[3] Lấy nghĩa từ mấy câu thơ sau đây trong bài Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn thị Điểm:
Chàng phong lưu đang chừng niên thiếu.
Sánh nhau cùng gian dứu chữ duyên.
Ngỡ nào đôi lứa thiếu niên.
Quan sơn để cách hàn huyên sao đành.
 
[4] Dịch nghĩa từ 2 câu dâu đầu trong bài Tĩnh Dạ Tứ cùa Lý Bạch (xem sau này).
 

No comments:

Post a Comment