Saturday, February 14, 2015

Đại Việt thắng Nguyên Mông- Bài 82


CHƯƠNG KẾT

 

Đây là phần đúc kết giải đáp các để tài:

I.                    Số quân của Nguyên Mông.

II.                 Đại Việt thắng là nhờ thời tiết ?

III.               Đại Việt thắng nhờ hình thể và địa hình?

IV.               Đại Việt thắng là vì Subutai không chỉ huy.

V.                 Kị mã Mông Cổ và bộ binh Đại Việt.

VI.               Du kích chiến không đáng phục.

VII.            Cung Mông Cổ vũ khí siêu việt. Chiến thuật Mông Cổ hay.

VIII.          Mông Cổ có thật sự thua không ?

 

I.                   Số quân của Nguyên Mông.

 

Đây là vấn đề mà ta đã tranh cãi rất lâu ở khắp nơi.

 

A-    Số quân của Nguyên Mông sang đánh nước ta là bao nhiêu? 

Con số lính Mông đánh lần thứ nhất thì gần giống nhau, đó là khoảng 20000 quân, nên không ai phản đối.

Theo sử Việt, con số sang đánh nước ta lần thứ nhì là 500000 quân và lần thứ ba là 300000 quân. Đa số các sử gia trên thế giới khi viết về chuyện Nguyên Mông sang Đại Việt đều không tin chuyện nước ta có khả năng đánh bại cả trăm ngàn quân Nguyên Mông. Trong quyển “Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400” khi viết về Đại Hàn hay Nhật Stephen Turnbull  đã bỏ ra gần chục trang để ghi lại các trận đánh, trong khi ấy đối với Đại Việt ông viết chỉ có 1 trang và không nêu lên một con số nào. Vì lý do ấy mà các sử gia trên thế giới chỉ viết rất đơn sơ chuyện Nguyên Mông sang Đại Việt. Mãi gần đây, sau hai cuộc chiến chống Pháp rồi Mỹ, thì một số sử gia thế giới đã hơi tin vào con số ấy.
Một số người đã đưa ra con số đánh Đại Việt lần 3, dựa theo Nguyên sử thì con số đó chỉ gần 100000, khác hẳn sử Việt.
Ta hãy xem qua phần Nguuyên sử ghi:
二十四年正月,发新附军千人从阿八赤讨安南。又诏发江淮、江西、湖广三省蒙古、汉、券军七万人,船五百艘,云南兵六千人,海外四州黎兵万五千,海道运粮万户张文虎、费拱辰、陶大明运粮十七万石,分道以进。置征交趾行尚书省,奥鲁赤平章政事,乌马兒、樊楫参知政事总之,并受镇南王节制。

“Tháng giêng năm thứ hai mươi tư [năm thứ 1286 Công nguyên], đem nghìn quân ở Tân Phụ theo A Bát Xích đánh An Nam. Lại chiếu lệnh đem bảy vạn người Mông Cổ, Hán, Khoán ở tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, năm trăm chiếc thuyền, sáu nghìn quân ở Vân Nam, một vạn năm nghìn quân người Lê ở bốn châu ngoài biển, Vạn hộ Trương Văn Hổ, Phí Củng Thần, Đào Đại Minh chuyển mười bảy vạn thạch lương theo đường biển, chia đường để đi. Đặt ra Giao Chỉ Hành thư tỉnh, Áo Lỗ Xích làm Bình chương chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri chính sự tổng chi, hợp phong Trấn Nam Vương làm Tiết chế.”[1]

Vậy để thấy rõ về số quân chúng tôi xin liệt kê lại thành một bảng rồi làm một phép toán cộng.

 

Tháng giêng năm thứ hai mươi tư [năm thứ 1286 Công nguyên], đem nghìn quân ở Tân Phụ theo A Bát Xích đánh An Nam.
1000
Lại chiếu lệnh đem bảy vạn người Mông Cổ, Hán, Khoán ở tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng,
70000
Năm trăm chiếc thuyền, sáu nghìn quân ở Vân Nam
6000
Một vạn năm nghìn quân người Lê ở bốn châu ngoài biển, Vạn hộ Trương Văn Hổ, Phí Củng Thần, Đào Đại Minh chuyển mười bảy vạn thạch lương theo đường biển, chia đường để đi. Đặt ra Giao Chỉ Hành thư tỉnh, Áo Lỗ Xích làm Bình chương chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri chính sự tổng chi, hợp phong Trấn Nam Vương làm Tiết chế.
15000
Tổng Cộng
92000

 

Vậy Nguyên sử sai hay Việt Sử phóng đại? Ta không nên tin tuyệt đối một nguồn nào cả.

Những người có chủ chương nói quân Nguyên vào Đại Việt ít vì họ dựa vào Nguyên sử và học chú ý tới số quân Mông trước thời thanh toán trọn vẹn Trung Quốc. Theo cách đó họ thấy số quân Mông đông nhất chỉ là 200000, để chống với 400000 quân của đế quốc Khwarezm (Khorezme). Khi nói đến đánh Nhật lần 2, Stephen Turnbull viết trong “Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400” có số quân là 140000. Các trận đánh khác chỉ là 20000 là trung bình.

Theo ý riêng cá nhân, tôi nghĩ có thể Việt sử đã dựa vào các con số tình báo không xác thực lắm cùng với sự hư trương thanh thế của địch quân, rồi làm tròn số để có con số này. Trong khi ấy Nguyên sử cũng không thu thập hết tài liệu và đưa ra con số khác với ta.

Tại sao lại có chuyện ấy?

Bây giờ ta hãy tìm hiểu xem Nguyên sử là do ai viết và viết lúc nào? Nguyên Sử do các tác giả chính sau đây viết: Tống Liêm, Vương Vĩ và một số khác. Quyển sử này được biên soạn đầu đời Minh, theo lệnh của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (Theo sách của ông Hà Văn Tấn và bà Phạm Thị Tâm thì bài biểu dâng Nguyên Sử lên Minh Thái Tổ của Lý Thiện Trường đề năm 1269, như vậy sử được soạn một năm mà thôi. Vì Minh Thái Tổ lên ngôi sau khi đánh bại quân Nguyên năm 1368. (Nhưng theo Wikipedia thì quyển này được soạn năm 1370)

Khi thu lượm tài liệu thì Nguyên sử chắc chắn đã không thu lượm hết tất cả tài liệu từ thời Nguyên bởi các lý do sau đây:

1. Nhiều tài liệu có thể đã bị hư hại khi cuộc chiến gần đến ngày tàn chế độ Nguyên không ai bảo quản, vì đã gần 100 năm rồi.

 2. Lý do thứ hai là nhiều tài liệu bị chiến tranh phá hủy. Cháy kho chẳng hay mái chứa bị thủng vì bị đạn và mưa gió làm hủy hoại.

3. Lý do thứ ba là khi đến lúc phải bỏ chạy thì nước thua luôn luôn tìm cách hủy bỏ tài liệu càng nhiều càng tốt để tránh địch quân thu được các tin tức bí mật, quan trọng. Đốt bỏ như vậy sẽ giúp cho sự chạy trốn khỏi mang theo các vật nặng. Chuyện đốt bỏ tài liệu, nhất là hồ sơ quân sự là việc rất thông thường khi một triều đại nằm trong một tình trạng nguy khốn. Tuy nhiên, một triều đại càng tồn tại lâu bao nhiêu thì càng khó thanh toán hết tài liệu được bấy nhiêu. Nếu địch quân bắt được các tài liệu này thì không mấy tốt. Chuỵên đốt, hay phá hủy tài liệu là một việc phải làm trước khi bỏ chạy để bảo vệ sự bố phòng các nơi khác, các tổ chức quân đội hay các gián điệp.

Đến ngày nay, tại Hoa Kỳ một công ti, một văn phòng bị chính phủ điều tra vẫn cắt nát các tài liệu bằng máy. Chắc các bạn đọc còn nhớ vụ Enron, khi bị chính phủ truy tố, họ cũng đã cố gắng tiêu hủy tài liệu.

Trong Nguyên sử cũng đã ghi chuyện này:

“明日南王入其国室尽空惟留屡降敕及中牒文尽行外有文字皆其南北消息及拒事情”

“Ngày sau, Trấn Nam Vương vào nước ấy, cung điện bỏ trống cả, chỉ còn giữ lại các sắc lệnh, chiếu văn cùng tờ văn của Trung thư, hủy bỏ tất cả. Ngoài có văn tự, đều có quân địch ở biên giới nam, bắc của nước ấy sẽ cùng chống cự quan quân
Như tôi cũng đã viết trong các phần trước, ta không nên tin hẳn vào một lịch sử. Nếu chỉ tin vào Nguyên sử, Hoa sử, hay Việt sử thì có thể bị hướng dẫn thiên lệch
B- Tại sao các sử gia trên thế giới không tin con số lính Nguyên đánh Đại Việt phải đông?
 
1. Cái nhìn của các sử gia là so sánh. Họ nghĩ ngày nay các nước hùng cường như Nga, Nhật mà quân số không đông huống hồ Đại Việt. Nhưng họ không nghĩ đến điều Nga, Nhật thời đó không có chiến tranh lớn. Đại Việt thì khác hẳn, ta đã liên tiếp đương đầu với quân xâm lược phương bắc nhiều lần với số quân 10 vạn là thường. Và việc mới nhất là chuyện Lê Đại Hành đánh Nam Tống cùng Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đã đánh Tống năm 1075-1076, quân số cũng như vậy. Với kinh nghiệm này quân Nguyên phải đem một số quân thật lớn hầu đè bẹp sức chiến đấu của quân dân Đại Việt. Hơn nữa vì đây là đất không phải là thảo nguyên, nên không hợp cho kị binh nên đa số quân sang xâm lăng Đại Việt là lính tuyển mộ ở Trung Quốc và chỉ là bộ binh. Kị binh bây giờ là lực lượng hỗ trợ mà thôi. Các tướng người Hán rất rõ dân Đại Việt, nên họ phải có một đạo quân lớn. Họ cũng biết là lính này không so sánh với lính kị binh Mông Cổ được, nên quân số phải đông. Và dẫu là lính Mông Cổ sang đây họ cũng không còn dũng mãnh như ở phương bắc. Trước đây chúng tôi đã viết J.A.G. Roberts cũng đã mô tả trong quyển sử về Trung Quốc và chúng tôi đã dịch: Các cuộc viễn chinh ở Đông Nam Á, đưa quân Mông vào vùng đất mà khả năng chiến đấu của họ không hữu hiệu và họ đã chịu thảm bại.
2. Quân Nguyên khác với Mông Cổ. Ngày trước khi đánh Khwarezm, Nga, Kim, Liêu thì quân Mông lúc ấy chỉ toàn là kị binh. Đến lúc đánh Nam Tống, họ đã phải dùng bộ binh và thủy binh mà kị binh đã là phần nhỏ. Quân số đánh Nam Tống lên đến 600000 quân. Lính đánh Đại Việt lại là lính tuyển từ Trung Quốc, một quân đội yếu thời ấy nên quân số phải đông để bù vào khiếm khuyết ấy. Như ta đã biết khi đánh Nhật, tin tình báo đã cho biết nước dễ đánh, vậy mà Hốt Tất Liệt vẫn cho đến 120000 quân sang vì đây là đạo bộ và thủy binh, rất ít kị mã.
3. Quyết tâm trả thù.
Một lý do khác mà rất nhiều người nghĩ là số quân Nguyên Mông sang Đại Việt phải rất lớn vì sự quyết chí trả thù của họ.
Sự căm tức của Hốt Tất Liệt chồng chất rất lâu vì các vua Trần tuy gọi là khuất phục để tránh đổ máu, nhưng chẳng bao giờ làm theo các đòi hỏi của ông ta cả.
Khi xưng đế ít lâu, năm 1275 Hốt Tất Liệt gửi vua Trần bài chiếu văn mà ban dịch thuật đại học Huế dịch từ quyển An Nam Chí Lược[1] trang 19 ghi lại: “Theo chế-độ của tổ-tông đã qui định, phàm các nước nội-phụ thì vua phải thân hành tới chầu, gửi con em làm tin, biên nạp dân số, nộp thuế-lệ, mộ dân trợ binh và vẫn đặt quan Đạt-lỗ-hoa-Xích để thống trị; sáu điều nói trên, năm trước đã có lời dụ cho khanh biết rồi, thế mà qui phụ đã hơn 15 năm, khanh chưa từng tới triều kiến một lần nào, và các điều qui định đến nay vẫn chưa thi hành; tuy rằng ba năm tới cống hiến một lần, nhưng các đồ cống hiến đều không dùng được.”
Năm 1278, Hốt Tất Lịêt lại gửi bài chiếu khác cho vua Trần Thánh Tông cũng trong quyển sách trên có đoạn sau: “Còn như nói: "vì đường xa không thể vào chầu". Thế thì bọn Lê-Khắc-Phục làm sao mà tới được? Hai điều đó là nói dối rõ-ràng.”
Vua Trần Nhân Tông lên ngôi mà qua mặt “thiên triều” cũng làm mất mặt Hốt Tất Liệt, nên ông ta lại gửi chiếu thư sang năm 1281. Quyển An Nam Chí Lược đăng lại: “Nay con không có lệnh của triều-đình mà tự lập lên làm vua. Ta sai sứ-thần qua triệu thì mượn cớ không đến chầu, nay lại thác ốm không đi, thật cố ý trái mệnh lệnh của ta, chỉ cho thúc phụ là Di-Ái vào bái yết. Ta liền muốn đem quân qua đánh.”
Sau lần xâm lăng thứ hai, Hốt Tất Liệt gửi bài chiếu sang nhà Trần năm 1286, và cũng quyển An Nam Chí Lược, trang 20 ghi lại: “Trước đây, nước khanh là Trần (chỉ vua Nhân-Tông nhà Trần) đã chịu thuần phục, theo niên lệ cống hiến, mà không chịu thân hành vào chầu. Nhân Trần-Di-Ái thúc phụ của ông ấy sang đây, ta giao việc nước An-nam cho y, sai sứ-thần đưa y về nước thì bị hại. Còn Đạt-Lỗ-Hoa-Xích là Bất-Nhẫn Thiếp- Mộc-Nhi của ta sai đến, lại bị khước đi, không tiếp nhận. Đến việc đem quân qua đánh Chiêm-Thành, lẽ nên tiếp-tế mà lại bỏ không cung cấp gì cả, vì vậy, Trấn-Nam-Vương Thoát-Hoan và Hành-Tỉnh A-Ly-Hải- Nha tiến binh, trong khi giao-chiến, hai bên đều có bị chết và bị thương.” Qua bài biểu này ta thấy rất căm tức trước sự cứng đầu của triều đình nhà Trần và không những thế đem quân sang đánh cũng bị thiệt hại.
Các chiếu thư, với các lời lẽ đe dọa mà nhà Trần vẫn không thỏa mãn lại còn dám đẩy Thoát Hoan trở về, giết chết Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán…Sự tức giận của Hốt Tất Liệt không kìm nổi. Năm 1288 ông lại gửi chiếu thư: “Trên danh nghĩa, Khanh đã phục tùng mà trên thực tế không hề tới chầu, đã mấy phen đưa thư sang mời, mà cứ cáo bệnh. Đến khi sai chú khanh quyền nghi giữ nước thì khanh công nhiên kháng cự và dám tự huyên sát hại. Còn A-Lý-Hải-Nha qua đánh Chiêm-Thành, mượn đường nước khanh, đã truyền lệnh sửa sang cầu đường và tiếp vận lương thực, khanh không những thất tín mà lại chống với quân ta, nếu không trừng trị, thì quy chế nhà vua còn đâu nữa.”[2]
Sau khi bị bão nhận chìm hạm đội Mông Cổ khi xâm lăng Nhật Bản lần thứ 2, Hốt Tất Liệt đã đình chỉ việc đánh Nhật và dồn mọi nỗ lực vào tấn công Đại Việt. Tài liệu Nguyên sử ông Tích Dã đã dịch như sau:
二十三年,帝曰:日本未相侵,今交趾犯,宜置日本,事交趾。
Năm thứ hai mươi hai, Hoàng đế nói: "Nhật Bản chưa từng xâm chiếm nhau, nay Giao Chỉ xâm phạm biên giới, nên bỏ Nhật Bản, chuyển đến liệu việc Giao Chỉ".
Tân Nguyên Sử cũng chép:
, 帝震怒,乃征日本兵,大伐安南。
“Nghe việc này, Hoàng Đế giận lắm, bèn bãi binh đi đánh Nhật Bản, phát động lớn đánh An Nam.”
Câu nói này biểu lộ lên sự căm tức, nóng lòng trả thù, dù rằng ta không xâm phạm đất Nguyên, nhưng ông ta đưa ra chuyện này là để có cớ gây nên một tình trạng tâm lý cho quần chúng mà đem số quân lớn sang đánh thôi.
Nên nhớ rằng khi đánh Nhật lần thứ hai số quân của Nguyên Mông là 140000 ngàn ngừơi, và đa số là thủy quân (gồm cả lính Cao Ly). Còn chuyện sang nước ta thì Nguyên Mông có thể sang bằng cả bộ lẫn thủy và bằng nhiều đường đi khác nhau. Số quân thì tuyển trong số cả toàn thể Trung Quốc và Đại Lý.
Một mặt khác, khi đã nhất định trả thù thì họ đem một đạo quân rất lớn thêm vào là ý thôn tính cả Đông Nam Á như chúng tôi đã bàn trên. Năm 1218, Thành Cát Tư Hãn cử một sứ đoàn đến Samarkand một thành phố của đế quốc Khwarezm. Hoàng đế nước này đã giết đoàn sứ giả ấy. Hai năm sau, Thành Cát Tư Hãn, đem một đạo quân 200000[3] ngàn kị binh Mông Cổ đến tàn phá trả thù giết gần hết dân thành phố thủ đô của đế quốc ấy. Lúc ấy, Mông Cổ chưa diệt được Kim, không hoàn toàn khuất phục Hạ nên đây có thể là đạo quân kị binh lớn nhất của Mông Cổ đem xâm lăng nước khác.
Khi quân Mông Cổ vào Đại Việt lần thứ nhất (1257 theo Việt Sử Tòan thư, hay 1258 theo nghiên cứu của GS Hà Văn Tấn) họ thấy sứ giả của họ bị trói. Khi mở thì một người đã bị chết. Như vậy họ có quyết tâm trả thù không?
Bây giờ lấy một thí dụ đơn giản của một thời gian nào đó: Gia đình bạn có hận thù với gia đình bên cạnh. Gia đình ấy có 3 người thanh niên, đánh nhau rất giỏi; có lần nó đã đánh hai người nhà bạn u đầu, bỏ chạy. Bây giờ bạn lại sai con bạn cầm đầu mấy người nhà sang đánh trả thù, vậy số người đó phải là bao nhiêu để con bạn không bị bể đầu, gãy răng?


[1] Ấn bản điện tử do các ông Lê Bắc-Công Đệ- Doãn Vượng. Tất cả các bài biểu mà Hốt Tất Liệt gửi cho nhà Trần đều trích từ đây, nếu không có phụ chính khác.
[2] Trích trang 20- Annam Chí Lược.
[3] Theo Stephen Turbull với quyển “Genghis Khan & the Mongol Conquests 1190-1400” và “Cambridge Illustrated History of China” của Patricia Buckley Ebrey.


[1] Tích Dã dịch.

No comments:

Post a Comment