Hôm ấy, tôi bị
đau bụng nên không ăn uống gì.
Khi xem cảnh ở
hải đang xong, thì đã gần trưa. Chúng tôi lên xe về trung tâm thành phố.
Xe mới ra khỏi
hải đăng độ 100 m thì thấy bên trái một dãy quán hàng, không mấy đẹp, nhưng khá
sạch sẽ khang trang và thơ mộng giữa cảnh núi rừng. Nơi đây xưa kia chỉ là rừng
le và cây rừng chằng chịt. Mọi người đề nghị xuống uống nước và tìm cho tôi một
thứ gì lót bụng.
Vào quán tôi nhận ra nơi đây là khu vườn na (mẵng cầu) mà tôi đã lên đây chăm sóc hàng ngày vào năm 1979. Tôi đi lại người chủ quán hỏi thăm về ông sư Sáu, người giới thiệu tôi lên chăm sóc khu vườn.
Tôi lại vợ
chồng người chủ quán, trạc trên 30 mươi, hỏi thăm xem đúng hay không. Nhưng mấy
người này quá trẻ họ chỉ biết có một ông sư nhà phía sau, ông đã qua đời. Nay
chỉ còn cháu ông sống nơi ấy.
Khu vườn này
chỉ cách tháp hải đăng dộ 100 m.
Lúc ấy, ông sư
Sáu, bạn của bố tôi, đề nghị tôi lên làm cỏ, chăm sóc một cái vườn mẵng cầu
(na), rồi bán trái cây lấy tiền sinh sống. Cái vườn này là tài sản của một
người nào đó ở Sàigòn, nhưng người này đã không xuống đây kể từ sau 30 tháng 4
năm 75, nên ông Sáu nghĩ là chủ nhân ngôi vườn ấy đã xuất ngoại. Ngay cạnh đường lên
tháp hải đăng, có một am gạch mái ngói khá mơi của chủ nhà, luôn luôn khóa trái.
Nghe ông sư Sáu nói lại thì đây là nơi nghỉ của chủ nhà và cũng là nơi họ
thiền.
Hai vợ chồng
tôi lại lo thêm một việc mới. Ngày đầu khi tôi mới lên dọn thì đây là một rừng
hoang có na, cỏ lau, cây dại mọc chen nhau. Tôi dọn dẹp hơn một tháng thì thành
một cái vườn sạch đẹp, rồi bắt đầu trong sắn.
Đến mùa na chín,
nhiều khi Điệp cũng phải leo lên đỉnh núi để đem na chín về nhà bán, vì mình
tôi hái không kịp. Đây là một việc nặng nề cho một người đàn bà mới trên 20
tuổi, mảnh mai như nàng, nhất là vào những ngày có mưa làm đường trơn như xối
mỡ.
No comments:
Post a Comment