a-
Do thám chiến lược
Ngày nay, việc do thám chiến lược được trao cho các vệ tinh nhân tạo. Cho
đến hôm nay (2013), nhiều nước đã có loại vệ tinh này, nhưng có thật hữu hiệu
hay không là chuyện khác. Ta hãy tìm hiểu hai nước tiên phong trong ngành này:
Hoa Kỳ và Liên Xô.
Từ ngày 4 tháng 10-1957, Liên Xô cho phóng vệ tinh Sputnick
1. Đó là thành quả của nhà bác học Korolev và các cộng sự viên. Cả thế giới bàng
hoàng vì không thể nghĩ con người lại có thể đưa một vật vào quỹ đạo. Đối với
Mỹ, họ cũng kinh hoàng vì Liên Xô đã đánh bại họ trong lãnh vực không gian bước
đầu tiên. Mỹ cũng đã cho nghiên cứu chương trình không gian từ sau Thế Chiến
II, nhưng họ không nghĩ rằng Liên Xô lại đi nhanh như vậy. Mãi ba tháng sau, ngày
31 tháng 1, 1958, Hoa Kỳ đã thành công trong việc phóng vệ tinh Explorer 1, với
các dụng cụ, máy móc tinh vi hơn Liên Xô nhiều.
Ngay từ khi ấy, Hoa Kỳ và Liên Xô đã chú ý đến việc dùng vệ tinh nhân tạo
để tìm hiểu đối phương. Về phía Hoa Kỳ, họ đã đưa ra chương trình Corona,
Gambit, Hexagon… trong khi Liên Xô đối lại với chương trình Zenit.
1. Hoa Kỳ
a- Corona:
Cuối thập niên 1950, Hoa Kỳ đã phóng một loạt các vệ tinh gián điệp.
Nhưng ngày ấy cứ thấy hỏa tiễn được phóng là ký giả, nhiếp ảnh viên đổ xô đi
tìm tin tức. Tin tức làm CIA tức mình nên đăt ra một tên khoa học “Discovery”
(Khám Phá) để mọi người hiểu lầm nghỉ rằng đó là khám phá không gian. Chương
trình có tên thật sự của nó là Corona (Vòng ngoài mặt trời hay tán mặt trời.)
Cuộc phóng đầu tiên được diễn ra ta căn cứ không quân Onizuka –Vandenberg, Santa Clara County,
California. Các cuộc phóng tiếp tục cho đến năm 1972. Sau vụ rơi của U-2 với
Gary Powers, các cuộc phóng vệ tinh gián điệp lại càng được phóng thường xuyên
hơn và đã cho rất nhiều tài liệu quý giá về Liên Xô, Trung Quốc và cả các nước
Cộng Sản khác.
KH-4B Corona satellite
Lacrosse
Các vệ tinh này thường được phóng lên bởi hỏa
tiễn Agena của Lockeed và trang bị với 2 máy chụp
hình có viễn vọng kính của Itek và dùng phim 70mm film của Eastman Kodak. Đây
là các film rất đặc biệt: mỗi một mm của phim có 170 dòng cảm nhận. Hai máy
chụp hình được hướng ra hai phía trái ngược. Về sau, các vệ tinh cải tiến để
chứa 3 máy chụp hình để có thể chụp được nhiều chi tiết hơn. Khi vệ tinh nằm
trong quỹ đạo, nó sẽ tự quay quanh trọng của chính nó. Lúc phía nào hướng xuống
đất thì máy chụp hình phía ấy hoạt động. Trong những lần đầu, một vệ tinh gián
điệp của trương trình Corona mang theo 8000 ft (2438,4 m) film cho một máy chụp
hình. Các film này lúc đầu có độ phân giải là 40 ft (12,2 m). Điều này có nghĩa
là một vật có đường kính 40 ft thì có thể biến thành 1 điểm trên film khi đem
rửa thành ảnh. Sau đó, các ống kính máy hình được tăng tiến để có độ phân giải
20ft. Càng về sau, độ phân giải chỉ còn 1 ft (0,3048 m). Với kĩ thuật không ảnh
gián điệp thì điều này cho là quá mức chính xác để quan sát chiến lược nên được
điều chỉnh độ phân giải là 3 ft (0,914 m).
Các máy chụp hình lấy film từ cuộn chính chụp
hình rồi được đưa sang một ống đựng film dặc biệt chế tạo bởi hãng General Electric. Khi các ống đựng phim đầy thì ống đựng phim này được
bắn ra khỏi vệ tinh, rơi về một điểm được tính trước (thường là trên biển). Ở
cao độ 60000 ft thì ống đựng film bốc cháy khi chạm bầu khí quỷên. Sau đó, ống
đựng phim sẽ bung ra một cái dù. Một máy bay có hai càng nối với nhau bởi 1 hệ
thống lưới sẽ vớt ống phim này trên không. Trong trường hợp, máy bay không với
được phim thì ống sẽ rơi xuống biển và các tàu của CIA sẽ lo vớt ống này. Nếu
không được vớt sau hai ngày thì ống đựng film sẽ tự động chìm để bảo vệ bí mật.
Sau khi, film được thu hồi, nó sẽ được chuyển về trung tâm Eastman Kodak's
Hawkeye để rửa và in hình.
Một layout của vệ tinh với
2 máy chụp hình
Song song với chương trình Corona, Mỹ còn vài chương
trình khác như Argon hay Lanyard.
Argon KH-5 được thực hiện từ năm 1961 đến năm 1964
với các vệ tinh năng từ 1150 kg đến 1500 kg do hãng Lockheed Martin chế tạo.
Tất cả có 12 lần phóng nhưng chì có 5 lần thành công. Mục đích của chương trình
này là chụp Nam Cực.
Lanyard KH-6 lại càng tệ hơn. Nó chỉ khéo dài 6
tháng trong năm 1963. Theo các lời đồn đãi thì chương trình này có mục tiêu
nghiên cứu các địa điểm của các hỏa tiễn chống hỏa tiễn liên lục địa gần
Tallinn của nước Estonia ngày nay. Chỉ có 3 lần phóng mà hai lần thất bại. Lần
thành công duy nhất cho được 910 bức ảnh, nhưng phẩm lượng không tốt.
Kỹ thuật thu hồi ống film
Một máy bay có hai càng
No comments:
Post a Comment