CHƯƠNG 03
(tt)
VIII/
Đánh Hung- Ba Lan 1241
Bản đồ Hung Nguồn: Hugaria- Geography Department
Hung Gia Lợi là
phần đất mà chúa Attila cũng gốc Mông-Thổ tới chiếm năm 430’s[1],
rồi làm tan nát Đông Âu một thời. Khi quân Mông Cổ tới Hung, thì đất nước này
đang ở trong tình trạng xáo trộn chính trị. Sự xáo trộn này bắt nguồn từ khoảng
60 năm trước khi quân Mông tới, ấy là thời vua Béla III.
Hậu bán thế kỉ
thứ XII, nước Hung là một vương quốc rộng lớn, nằm dưới thời vua Béla III. Vua
Béla III là một người hay gửi quân theo đoàn thập tự trong cuộc thánh chiến
(Crusader[2])
của giáo hội La Mã. Ông có hai hoàng tử: Emeric và Andrew. Vì là em nên Andrew
vô phương có thể thay cha làm vua xứ Hung Gia Lợi.
Năm 1188, lãnh
chúa Volodymyr II của xứ Halych (hay Galych, Gallich, Galicia), ở ven sông Dniester phía tây Ukraine ngày nay, bị các người dưới quyền
lật đổ phải chạy đến Hung, xin vua Béla III cho lánh nạn. Vua Béla bắt vị lãnh
chúa giam lại, rồi cho hoàng tử Andrew, 11 tuổi, lên làm lãnh chúa xứ Halych.
Tuy nhiên Andrew chỉ làm lãnh chúa trên danh nghĩa mà thôi; ông không bao giờ
về lãnh thổ Halych cả. Mặc dù vậy, quân lính của vị lãnh chúa tí hon này vẫn về
kiểm soát phần đất ấy.
Không lâu sau
đó, Volodymyr II, trốn klhỏi tù trở về Halych đánh đuổi quân Hung trở về nứơc.
Năm 1196 vua
Béla III băng hà. Emeric lên ngôi, nhưng đa số tiền tài lại trao cho Andrew để
ông tiếp tục theo ý cha đem quân theo đoàn Thập Tự. Andrew dùng tiền của mua
chuộc các quận công, nam tước trong xứ cũng như tìm sự ủng hộ từ công tước
Leopold V của Austria (Áo). Năm sau, ông đem quân đánh bại vua anh Emeric, ở
trận Macsek. Ông vua anh phải cắt đất Croatia, Dlamatia[3]
cho Andrew.
Năm 1198, Giáo
Hoàng Innocent III, yêu cầu Andrew đem quân theo đoàn thập tự đánh Holy Land,
đất thánh nay là vùng Jerusalem.
Ông đem quân đi, nhưng thay vì đi sang phương đông, thì ông lại đem quân đánh
các nước láng giềng và cuối cùng lập chương trình đánh vua anh. Emeric nghe
tin, liền bắt giam hồng y Boleszlo, người đứng đầu trong đám ủng hộ Andrew,
đồng thời cách chức các người ủng hộ ông em. Năm 1199 vua Emeric đánh bại
Andrew trong trận Rád; ông này phải bỏ chạy sang Áo. Cuối cùng Giáo Hoàng
Legate Gregory làm trung gian hòa giải cho hai anh em. Ông anh lại nhường đất
Croatia và Dalmatia cho em cai trị.
Sau năm 1200,
Andrew lại chiêu mộ binh mã theo lời vợ, rồi tiến quân định đánh anh lần nữa.
Emeric nghe tin binh lính của Andrew đông hơn quân của ông nhiều. Ông đầu đội
vương niệm, tay cầm vương trượng (gậy có cẩn ngọc cho nhà vua mà thôi), rồi đơn
thân, độc mã sang trại binh của ông em. Ông em cảm phục cái hào hùng của anh và
xin đầu hàng.
Chẳng bao lâu
sau, Emeric bị bệnh nặng, mà con là Ladislaus còn nhỏ. Ông cho vời Andrew vào
và nhờ cậu em làm phụ chính giúp hoàng tử lên ngôi sau này. Năm 1204, vua
Emeric băng hà. Andrew giúp Ladislaus lên ngôi và làm phụ chính, nhưng lấy hết
tiền của anh cho vào quỹ trên danh nghĩa Ladislaus. Hoàng hậu, vợ vua Emeric sợ
cho số mệnh của ấu quân, nên đem ấu quân chạy trốn sang Áo lánh nạn ở lâu đài
công tước Leopold VI. Andrew liền chuẩn bị binh mã đánh Áo, nhưng chỉ vài tháng
sau thì Ladislaus cũng từ trần. Andrew chính thức lên ngôi.
Ngay sau khi ấy,
Andrew rất cởi mở, việc đầu tiên là tặng không các bất động sản của hoàng gia
cho các người ủng hộ ông. Ông đặt tên cho công việc này là chính sách novæ
institutiones (chính sách mới).
Người ta không giải thích tại sao ông lại hành động như vậy, nhưng rất có thể
là ông biết nhiều người trong đám nam tước, bá tước không ưa nên đã ban
hành chính sách ấy để làm thỏa mãn đối tượng.
Ngoài chính sách
cho không trên, ông còn chịu ban hành luật Golden Bull, mà trong đó có nhiều
điều kiện nhún nhường giới quý phái. Chẳng hạn như các nam, bá tước, đại diện
giáo hội hay cố vấn có quyền ngồi gần nhà vua. Các người này còn có quyền không
tuân lệnh vua, nếu nhà vua làm không đúng với các thỏa thuận từ trước. Tất cả
các việc trên đều làm suy yếu quyền năng của nhà vua cũng như đất nước.
Năm 1213, khi
Andrew đang dẫn quân sang Halych thì vợ ông bị ám sát. Lúc về ông cho hành hình
người chủ mưu nhưng tha tất cả tòng phạm. Điều này làm con ông, hoàng tử Béla,
phẫn uất. Tuy nhiên, năm sau ông vẫn phong cho cho Béla làm tiểu vương cai quản
vùng Croatia, Dlamatia.
Khoảng năm 1216,
ông lãnh đạo thập tự quân sang Trung Đông, với sự tham dự của nhiều tiểu quốc,
nhưng không có kết quả vì súng công thành không tới đúng hẹn. Trên đường về,
ông ghé lại đế quốc Nicaea thăm hoàng đế Theodore I Laskaris
và Tsar (vua) Ivan Asen II
của Bulgaria. Nhân đó, ông dàn xếp vài cuộc hôn nhân cho các con của
ông và đặc biệt cho Béla.
Nhưng In 1220, Béla đã cưới Maria Laskarina, công chúa con vua Theodore I Laskaris
của xứ Nicaea. Năm 1222, Andrew về đến Hung, ông
thuyết phục Béla bỏ vợ để cưới người mà ông đã dàn xếp trên đường đi thập tự
hành quân về. Giáo Hoàng Honorius
III, chống đối và tuyên bố cuộc hôn nhân bất hợp lệ; vì vậy Béla đem
vợ chạy trốn sang Austria, vì sợ vua cha giận. Cuối cùng, qua sự trung gian của
Giáo Hoàng, vua Andrew II và Béla đã giải hòa. Một lần nữa Béla lại làm lãnh
chúa vùng Slavonia, Dalmatia and Croatia.
Lúc này, Béla đã
lớn, lại có Giáo Hoàng chống lưng, ông ra lệnh lấy lại tất cả ruộng đất, nhà
cửa… từ các giới quí tộc mà vua cha đã ban cho họ. Nam tước cổ thành Klis
ở Croatia (vùng thuộc Nam Tư) không chịu; ông
liền đem quân vây; vị nam tứơc phải đầu hàng.
Năm 1223, sau
khi bị bại trận Kalka, Koten dẫn 40000 vừa dân vừa lính của Cuman chạy từ phía
bắc biển Bắc Hải vào vùng Transylvania, để tránh Mông Cổ.
Vua Andrew II
không chấp nhận việc làm của Béla. Năm 1226, vua Andrew II thuyên chuyển Béla
làm lãnh chúa vùng Transylvania, rồi đem người em của Béla là Coloman
thay thế Béla cai quản vùng Slavonia, Dalmatia and Croatia. Tại Transylvania, Béla phải dàn
xếp với đám loạn quân, khó trị Cumans. Vì chuyện lấy lại tài sản từ giới quý
tộc, nó gây tai hại đến uy tín của ông ở giáo hội, vì rất nhiều người chống đối
ông. Bây giờ ông lại phải đối phó với giáo hội. Ông tìm đến đám Cumans đang
định cư, yều cầu họ cải theo đạo Thiên Chúa. Nếu làm như vậy ông sẽ bảo vệ họ
và để họ làm ăn bình an trong vùng này. Kết quả, hai người trong đám cầm đầu là
Bartz và Membrok đã rửa tội. Nhờ vậy uy
tín của ông đã tăng lên ở giáo hội.
Đến năm 1228,
Béla và em là hoàng tử Coloman
lại thuyết phục vua cha Andrew II lấy lại các tài sản đã ban cho các nam, bá
tước mà trước đây họ có dính líu đến vụ ám sát mẹ hai ông.
Năm 1235, vua
Andrew II băng hà; Béla chính thức lên ngôi vua Hung, và muốn làm tăng thêm
quyền năng của triều đình cùng sức mạnh quốc gia đối với các tiểu quốc chung
quanh. Một trong các việc đầu tiên của ông làm là lấy lại các tài sản mà cha
ông đã cho các nhà quý tộc. Thu hồi sắc luật Golden Bull. Tiếp theo ông đốt tất
cả các ghế ngồi của các cố vấn, bá tước…Ông muốn khi họ nói chuyện với ông thì
phải đứng, chứ không được ngồi. Tất cả các việc trên làm cho giới quý tộc cảm
thấy phẫn uất hơn. Dựa vào quyển “A History of Hungary” thì việc thu hồi tài
sản cũng như sắc lệnh Golden Bull đã làm cho vua Béla trở thành một nhân vật
tồi tệ nhất trong lịch sử Hung Gia Lợi.
Cùng năm ấy, vua Béla ra lệnh cho Dominican
Friar Julian hướng dẫn một nhóm giáo sĩ gồm ba người sang miền đông thuộc Nga
để tìm những người Magyar còn sống rải rác bên ấy. Magyar là người gốc Hung cổ
không theo đạo Cơ Đốc. Việc của phái đoàn này là đem nhóm Magyar trở về Hung
rồi cải đạo cho họ thành Cơ Đốc giáo. Đoàn này đến Nga thi nghe tin Mông Cổ tàn
phá miền bắc của Caspian, nên quay về báo tin cho Béla biết trước mà phòng ngừa
một cuộc tấn công đẫm máu. Theo quyển “A
History of Hungary” thì toán người
này đã gặp nhóm Magyar năm 1236, nên họ về báo lại cho vua Béla. Năm sau 1237,
nhóm này sang Nga lần thứ hai và khi đến nơi thì nhóm Magyar này đã bị Mông Cổ
tiêu diệt. Dominican Friar Julian vội vàng đem nhóm giáo sĩ quay về Hung báo
tin
[1] Đây là
cách viết tắt thập niên từ năm 430 đên năm 439.
[2] Các cuộc
crusade thường nhắm vào đạo Hồi (Muslims). Tuy nhiên nó
cũng còn đánh vào các người Slavs vô thần, Do Thái Giáo (Jews),
Orthodox Christians của Nga và Hy
Lạp.
[3] Các vùng
này ở bờ phía đông của biển Adriatic, đối diện với Ý Đại Lợi (thuộc nước Nam Tư trước 1990).
No comments:
Post a Comment