Thursday, April 5, 2012

Tại ngục vịnh thiền

在 獄 詠 蟬           


西 陸 蟬 聲 唱                       
 Tây lục[2] thiền thanh xướng[3].
            冠 客 思 深                       
Nam quan[4] khách tứ thâm.
不 堪 玄鬢 影                        
Bất kham huyền mấn[5] ảnh.
來 對 白 頭 吟                       
Lai đối bạch đầu ngâm.
露 重 飛 難 進                       
Lộ trọng phi nan[6] tiến[7].
風 多 蠁 易 沉                       
Phong đa hưởng dị trầm.
無 人 信 膏 潔                       
 Vô nhân tín cao kiết.
為 表 予 心                       
Thùy vị biểu[8] dư tâm.
          駱賓王                        Lạc Tân Vương[9].

                          Tại ngục vịnh thiền[1].

                        (Vịnh ve trong ngục)


                   Mùa thu đến, ve kêu vang.

Người tù buồn rầu.

Không chịu nổi đôi cánh đậm.

Đến ngâm nga với lão già.

Sương dày khó bay.

Gió lớn giọng bị chìm.

Không ai tin vào sự thanh cao của ta.

Ai hiểu được lòng ta?
                                  VHKT
Vịnh ve trong ngục

Ve hát lúc thu về.                     

Người tù thấy tái tê.                

Ve buồn đôi cánh xậm.           

Cùng lão ngâm không nề.      

Sương đậm bay trầm quá.      

Gió nhiều kêu thấp ghê.          

Không người nghĩ tớ sạch.     

Sao tỏ được lòng hề?              

VHKT 1975.                                                      

        Ve kêu trong lúc thu về.lúc học tập cải tạo

Người tù cảm thấy tái tê cuộc đời.

Ve buồn cánh xậm một đôi.

Lại đây cùng lão, để rồi ngâm nga.

Sương nhiều ve khó bay xa.

Gió mạnh thổi tới tiếng ca thật trầm.

Nào ai nghĩ tới tinh thần.

Làm sao bày tỏ một  phần tâm ta?

VHKT 1975.  



[1] Thiền hay thuyền: con ve sầu.
[2] Tây Lục: Cổ thi viết: “Nhật hành tây lục vị chi thu.” Vì vậy sau này khi nói tới “tây lục” là ám chỉ tới mùa thu.
[3] Xướng: hát, ca.
[4] Nam quan: Mũ người phương nam, tức là mũ ngưởi nước Sở. Đối với các nước thuộc giống Hán thời Chiến Quốc đều nằm ở phía bắc sông Trường Giang. Chỉ có Sở là phương nam. Sau này khi nói tới Nam Quan là người ta nghĩ tới người tù.
[5] Tấn hay mấn: tóc mai. Huyền nấm là tóc mai đen. Vì cánh ve đen nên dây có nghĩa là cánh ve.
[6] Nan: khó.
[7] Tiến: đi về trước.
[8] Biểu: bày tỏ.
[9] Lạc Tân Vương người Nghĩa Ô tỉnh Chiết Giang, nổi tiếng thơ hay từ năm bảy tuổi. Ông ra làm quan đời vua Cao Tông, Võ Hậu nhưng bất mãn xin thôi. Khi Từ Kính Nghiệp nổi lên chống lại triều đình có dùng ông làm chức phủ thuộc. Ông có thảo bài hịch kể tội Võ Hậu. Có sách nói ông bị bỏ tù lại có sách kể cuộc biến loạn thất bại, ông bỏ trốn và mất tích. Theo Cựu Đường thư thì ông bị giết năm 684.

No comments:

Post a Comment