Friday, June 13, 2014

Nghiên cứu CHIẾN HẠM 14


DESTROYER -KHU TRỤC HẠM.

Với sự hiện diện của tầu ngầm cùng torpedo là một mối đe dọa cho tàu nổi. Rồi Anh quốc cho ra đời chiếc thiếp giáp hạm Dreadnough, các nước khác nối đuôi làm các chiến hạm không chìm. Dù sao chăng nữa các thiếp giáp hạm mới vẫn bị đe dọa khi nhiều chiếc torpedo boat đồng loạt xuất hiện

Ngay lúc các chiếc loại Dreadnought ra đời thì các đối phương phải nghiên cứu cách trị lại các con quái vật này cùng các tuần dương hạm chẳng kém phần vĩ đại. Các nước ấy đã cho ra đời loại tàu nhỏ nhanh, mang ống phóng ngư lôi, nguy hiểm. Anh thì cho ra motor torpedo boat (MTB); Mỹ hạ thủy Patrol Torpedo (PT); còn Đức cho ra đời lọai Schnellboot, hay S-Boot như đã viết phần trước.

Để bảo vệ các pháo đài sắt thiếp giáp hạm, tuần dương hạm, chống lại totpedo boat, ngừoi ta lại chế ra chiến thuyền mới. Loại tầu này to hơn đối thủ nhưng nhỏ hơn thiếp giáp hạm và tuần dương hạm. Loại tàu này di chuyển thật nhanh, trang bị súng  khá lớn, bắn xa. Khi mới ra đời, các tàu loại này được gọi là "Catchers" có nghĩa là đi bắt. Bắt  đây có nghĩa là bắt các các phóng lôi hạm.

Sau nhiều lần thay đổi cách gọi, cuối cùng hải quân Anh gọi là Torpedo Boat Destoyer, loại tàu thiết kế để truy lùng, tiêu diệt các tàu phóng ngư lôi (Motor Torpedo Boat- MTB). Nhưng dần dần được đơn giản hóa khi đối thoại hay viết lách, người ta bỏ bớt hai chữ đầu và chỉ còn chữ destroyer mà ta dịch là KHU TRỤC HẠM.

Câu chuyện phát sinh loại chiến thuyền này là từ nước Nhật. Vào năm 1885, Nhật thấy họ phải có một loại MTB lớn hơn các đối thủ. Họ bèn đặt hàng ở hãng Yarrow shipyards- London, vì ngày ấy chỉ ở nước Anh là có khả năng đủ loại tàu chiến. Các nhà hải chiến học cùng kỹ sư Nhật vẽ ra kích thước cùng sự hoạt động cần thiết. Con tàu này dài 50 m, lượng rẽ nước 203 tấn (gấp đôi các MTB khác), trang bị súng 37 mm tốc độ nhanh, cùng 6 ống phóng ngư lôi, và chạy nhanh với vận tốc 35 km/h. Con tàu này được đặt tên là Kotaba. Hãng Yarrow shipyards làm tất cả các bộ phận rồi được chuyển về Nhật để ráp nối và hoàn tất năm 1887.

Khi mang ra hoạt động, người ta thấy con tàu này đã vượt qua khỏi sự mong muốn là chỉ phòng vệ bờ biển mà có thể hộ tống các hạm đội vượt trùng dương. Hãng Yarrow shipyards đã công nhận, Nhật là nước có ý phát minh ra khu trục hạm đầu tiên.

 
Thấy được kết quả tốt đẹp này, Tây Ban Nha nối tiếp đặt hàng. Lúc ấy, phụ tá của hải quân nước này là Fernando Villaamil đặt hãng James and George Thompson cũng của Anh làm 1 chiếc với tên là Destructor (phá hủy). Destructor có lượng rẽ nước gần gấp đôi chiếc Kotaba và trang bị 1 súng 90 mm, 4 khẩu 57 mm, 2 khẩu 37 mm cùng 3 ống phóng ngư lôi.

Chiếc này được đặt lườn năm 1886 và hạ thủy năm 1887. Chiếc này cần điều hành bởi một thủy thủ đoàn gồm 60 người. Khi chạy thử nó đã đạt vận tốc 41 km/h. Hiển nhiên, nó không còn là loại MTB nữa và được coi như là chiếc khu trục hạm đầu tiên của thế giới.

 
Một điều nực cười là các chiến hạm này mang danh là tiêu diệt các tàu phóng ngư lôi, nhưng chính chúng lại mang vũ khí này. Cả Nhật lẫn Tây Ban Nha đều chưa biết nên đặt tên loại tầu của họ là loại gì mà cứ chấp nhận chúng là phóng lôi hạm- MTB.
Khởi đầu, hải quân Anh đóng thử loại catcher với chiếc HMS Rattlesnake. Khi thấy khả dĩ lập ra một loại tàu này, họ đã làm hai chiếc thộc lớp Daring đó là HMS Havock và HMS Hornet. Từ đó danh từ destroyer đã được gán cho hai chiếc ấy vào năm 1894.
Dần dần người ta biến thể ứng dụng và đây là loại tầu nhẹ, di chuyển lanh lẹ dùng để hộ tống các đòan tàu chiến, thương thuyền hay tiếp vận. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ các tàu lớn hơn, chống lại tất cả các tàu nhỏ đi chuyển nhanh, nhất là các tàu phóng ngư lôi. Trong và trước thế chiến II, loại tàu này không có khả năng chịu đựng lâu dài, nên không thể tự chiến đấu. Sở dĩ có việc này là vì tàu khá lớn, cùng với súng nặng, lại chạy thật nhanh, nên nhiệu liệu tiêu thụ nhiều, làm năng lượng dự trữ mau cạn. Muốn hoạt động lâu với đoàn tàu, thì nó cần tiếp liệu từ 1 tàu chở tiếp liệu phẩm của đoàn.
Đối với Nga, chiếc khu trục hạm đầu tiên cũng được đóng bởi hãng Yarrow Shipbuilders. Đó là chiếc Sokol. Chiếc này được khởi công năm 1894 và hoàn tất năm sau 1895. Sokol có lượng rẽ nước 220 tấn, dài 58 m; và đạt được vận tốc 55 km/h. Theo sau chiếc Sokol, Nga đóng thêm 26 chiếc nữa.
Pháp thấy các nước đua nhau làm khu trục hạm, bèn tự đóng lớp Durandal và gọi loại tàu này là 'torpilleur d'escadre'.
 
 
Lớp này gồm 4 chiếc, có lượng rẽ nước là 300 tấn, dài 60 m, đạt vận tốc 48 km/h. Về vũ khí chúng được trang bị 1 khẩu 65 mm, 6 khẩu 47 mm và 2 ống phóng ngư lôi.
 
Những chiếc khu trục hạm đầu tiên của Mỹ là những chiếc thuộc lớp Bainbridge, hạ thủy năm 1901 với lượng rẽ nước 600 tấn dài 76 m và vận tốc 53 km/h, trang bị với 2 súng 76 mm, 6 súng 57 mm và 2 ống phóng ngư lôi.
Càng ngày các chiến thuyền lọai này càng trở nên lớn hơn, tân kỳ hơn.
Trong vùng Địa Trung Hải, trong những năm 1873 đến năm 1882 hải quân Ý cho ra lớp Caio Duilio, thuyền gỗ nhưng bọc sắt bên ngoải, có lượng rẽ nước tới 12500 tấn, dài 109 m, hơi nước chạy than, vận tốc 28 km/h. Thời gian của thập niên 20 của thế kỷ XX, Ý có lớp Condottieri. Tiêu biểu trong lớp này là chiếc Montecuccoli. Sau đây là phần kích thước và trang bị của chiếc Montecuccoli. Lượng rẽ nước 11500 tấn, dài 187 m, vận tốc nhanh đến 69 km/h. Về vũ khí trang bị, gồm: 8 khẩu 152 mm. Ngoài ra, nó còn có chỗ chứa hai thủy phi cơ.
Với sự xuất hiện tàu có lớp Condottieri, Pháp chẳng ngần ngại thiết kế một lớp khu trục hạm Fantasque, gồm 6 chiếc. Chiếc đầu tiên mang tên của lớp Fantasque được hạ thủy năm 1931 có lượng rẽ nước 2570 tấn, dài 132 m, vận tốc nhanh đến 83 km/h. Đây là tầu chiến nhanh nhất thế giới với loại máy hơi nước. Về vũ khí trang bị, gồm: 5 khẩu 138 mm, 4 khẩu 37 mm, 8 khẩu 40 mm, 10 khẩu 20mm và 9 ống phóng ngư lôi.
Nước Đức vì thua trận trong thế chiến I, nên bị hiệp ước Versailles ngăn cản, nên họ  chỉ có các tầu dưới 600 tấn. Nhưng khi Hittle nắm quyền và chủ trương chiến tranh, họ đã làm các tàu loại này khá lớn. Lớp đầu tiên là lớp 1934, khởi đầu trong thập niên 1930 với lượng rẽ nước trên 3000 tấn, nhưng trang bị nhe. Đến năm 1936 trở đi thì khu trục hạm của họ trang bị với các súng 155 mm. Ngoài ra nước này cũng dùng động cơ mới sáng chế gọi là high-pressure steam machinery (động cơ hơi nước có sức ép cao), vận tốc nhanh đến 67 km/h. Loại động cơ này giúp cho tăng thêm hiệu quả, nhưng vì quá mới, chưa được trắc nghiệm nhiều, nên thường bị nghẽn máy.
 
 
Trong thập niên 30, khi nhận thấy Đức, Ý và Nhật xây dựng những khu trục hạm lớn, Anh và Mỹ cho ra một số lớp với lượng rẽ nước ít hơn đối phương chỉ vào khoảng dưới 2000 tấn nhưng số lượng nhiều.
Cùng thời gian này mối nguy của tầu ngầm gia tăng, nhất là hậu quả của U-boat trong thế chiến I. Các khu trục hạm nay được tăng cường máy dò tầu ngầm, và thủy lôi chống loại tầu ấy. Vì tầu ngầm không thể thấy khi chúng lặn, nhưng khi di động thì tiếng máy truyền đi rất xa và rõ. Theo luật âm thanh vật càng cứng thì anh thanh tuyền đi càng dễ. So với không khí thì nước cứng hơn nên âm thành truyền đi dễ hơn.
Máy dò tầu ngầm được gọi là ASDIC hay SONAR.
Năm 1916, một khoa học gia người Canada, đã mộp bằng phát minh cái mẫu khái niệm (prototype) dò âm thanh. Hải quân Anh thấy nó có hiệu quả và đặt tên máy là ASDIC. Đây là chử tắt cảu hợp chất chính sử dụng làm máy này, nhưng về sau người ta đã sáng chế ra một từ và nói đây là chữ viết tắt của tổ hợp nghiên cứu dò sét tầu ngầm 'Allied Submarine Detection Investigation Committee'. Ủy Ban Anti-Submarine Division of the British Naval Staff lập tức đưa ra một chương trình tối mật để làm máy này một cách thật hiệu quả.
Nắm 1918, Pháp và Anh làm chiếc máy đầu tiên và cho thử trên chiên ham Anh HMS Antrim. Nhưng chiến tranh cũng đã chấm dứt.
Trong thập niên 30, các kỹ sư Mỹ nghiên cứu và sản xuất ra máy dò tầu ngầm bằng âm thanh. Họ đặt tên máy là SONAR đây là chữ viết tắt của SOund Navigation And Ranging.
 Các khu trục hạm Đồng Minh đã được trang bị máy này trong thế chiến II, kèm với loại thủy lôi AUS làm cho Đức Nhật thiệt hại nặng nề.
So sánh Khu trục hạm thế chiến II
Lớp
Quốc Gia
(Hạ thủy)
Lượng rẽ
nước (tấn)
Chiều dài
m
Vận tốc
tối đa
km/h
Hoạt tầm
km
số tàu
 hạ thủy
Evarts
US/1943
1450
88
39
7690
97
Buckley
US/1943
1700
93
49
10000
102
Edsall
US/1943
1600
93
38
20000
85
O & P
UK/1939
1600
105
68
7000
16
C class
UK/1943
2560
110
67
9000
32
Battle
UK/1944
3400
116
66
8000
26
Momi
Jap/1923
1020
85
67
5600
21
Fubuki
Jap/1933
2000
118
70
9300
24
Kagerō
Jap/1940
2500
118
66
 -
19
1934
Ger/1934
3000
119
67
3500
325
1936
Ger/1936
2600
125
67
3800
6
1936A
Ger/1941
3600
127
68
4500
3
Turbine
Italy/1927
1600
93
67
5900
8
Condottieri
Italy/1928
11500
187
69
 -
12
Vauquelin
Fr/1931
2500
129
67
6700
6
Fantasque
FR/1933
3400
132
74
1200
6
Le Hardi
Fr/1940
1770
117
69
5000
8
 
Nhìn vào bảng trên ta nhận ra rằng Tàu chạy nhanh nhất là của Pháp (Fr). Tầu có trọng tải lớn nhất là Ý (Italy). Tầu chậm nhất là cuả Mỹ. Tầu hoạt tầm xa nhất là Mỹ. Tàu cảu Anh (UK) thì có vận tốc khá cao và hoạt tầm cũng khá cao. Các tầu chạy nhanh như Pháp, Ý có tầm hoạt động ngắn. Vậy ta có kết luận gì? Ta thấy quan điểm design các tàu này của mỗi nước khác nhau. Các tầu chạy vùng Địa Trung Hải không cần chạy xa nên hoạt tầm ngắn, và có tốc độ cao. Các nước Mỹ, Anh và Nhật hoạt động trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương rộng lớn bao la nên cần có tầm hoạt động xa. Tầu có tầm hoạt động xa thì vận tốc chậm, vì để bảo toàn nhiên liệu và nhu yếu phẩm. Mỗi cách chọn lựa đều có lợi hại khác nhau. Khi đuổi bắt thì vận tốc cao có lợi. Nhưng phải chạy dường trường thì những chiếc có tầm hoạt động lớn lại có ưu thế.
Trong trận Hoàng Sa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa có các tàu lớn với các khu trục hạm Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư thuộc lớp Edsall, thiết kế từ năm 1943. Lớp này vận tốc thấp chỉ 38km/h. trong khi tàu TQ nhỏ hơn nhưng vận tốc cao hơn nên mình bị lép vế. Từ Dà Nẵng ra đến Hoàng Sa chỉ trên 200 km đâu cần tới tàu chạy đường dài. Giả sử lúc ấy, mình được trang bị với các tàu của Pháp, Anh lớp Le Hardi hay Battle, thì có lẽ cuộc chiến may ra đổi chiều.
 
 

No comments:

Post a Comment