Monday, June 30, 2014

Nghiên cứu CHIẾN HẠM 16


Corvette/ Hộ Tống Hạm

Danh từ Corvette xuất sứ từ Pháp. Anh lúc đầu thì gọi loại tầu này là sloop.

Trong thế kỷ XVII (17), loại này dài từ 10 đến 12 m và lượng rẽ nước từ 40 đến 70 tấn. Đến thế kỷ XIX (19), thì các con thuyền này đã dài hơn gấp đôi với độ dài 30 m và lượng rẽ nước lớn gần gấp 10 lần, 600 tấn. Loại này nhỏ hơn frigate nhưng lớn hơn tàu tuần duyên.

Mãi cho đến khi Anh Pháp chiến tranh trong cuộc chiến Napoleon 1803-1815 thì Anh làm quen với chữ corvette và sau đó gần hai thập niên thì họ mới chính thức chấp nhận loại corvette. Lúc ấy, hải quân Hoàng Gia Anh mới chính thức đề ra loại chiến thuyền một sàn, trang bị với 20 đến 24 súng là corvette. Với loại này thì lớn hơn các sloop mà Anh đã dùng trước đó. Khi loại này ra đời thì người ta mới biết rõ kích thước của nó hơn. Loại thuyền này có lượng rẽ nước khoảng 500 tấn, như vậy nó chỉ bằng một nửa loại trên nó là frigate- khu trục hạm nhẹ.

Đến thời kỳ máy hơi nước các hộ tống hạm- corvette trở nên linh hoạt và nhanh hơn loại dùng buồm nhiều. Trong thời này, các tàu loại thiết giáp hạm hay tuần dương hạm trở nên quá lớn, cồng kềnh cho các cuộc xâm lăng vào các nước Á Châu. Các quốc gia Âu Châu dùng các loại chiến hạm nhỏ hơn như khu trục hạm và loại corvette được dùng để hỗ trợ.
Trong các năm kế tiếp việc chế tạo loại tàu này trở nên không quan trọng.
Đến thế chiến II, việc làm các tàu loại này trở nên dễ dàng vì các nhà thiết kế dựa vào các loại tàu đánh cá voi. Vì hiệu quả của máy chạy tàu, các tàu loại này lớn hơn và có lượng rẽ nước tăng đến 1000 tấn, để có thể nhiều trang bị cho phù hợp với chiến tranh. Đô Đốc Winston Churchill, sau này là thủ tứơng Anh, có trong tay một số thiết kế và ông đã nghiên cứu để đặt lại loại corvette cho phù hợp với thời đại ấy. Lúc đầu, các mẫu design cho loại tàu khá lớn làm lẫn lộn với loại Tribal-class destroyer, vi lượng rẽ nước lên đến 2500 tấn, dài 115 m, vận tốc 67 km/h. Về sau, làm nhỏ hơn và một loạt 267 chiếc corvette ra đời, năm 1939-1940. Đó là lớp Floweer, mà lượng rẽ nước chỉ 950 tấn, dài 63 m, vận tốc 30 km/h. Quân đội rất nhiều quốc gia của Đồng Minh được trang bị với lớp này, kể cả Mỹ cũng dùng loại này trong lúc mới tham chiến.
 
Lớp flower đã phục vụ hiệu quả để hộ tống các tàu hàng xuyên Địa Tây Dương và còn đem tiếp liệu phẩm cho hồng quân Liên Xô qua ngả hải cảng Murmansk- Bắc Hải, cực bắc Liên Xô, cạnh Phần Lan.
Chiến tranh càng lúc càng mạnh, với sự hiện hiện của các U-boat mới. Lớp flower trở nên quá nhẹ để chống lại tầu ngầm lẫn phi cơ. Việc hộ tống bây giờ được chuyển lại cho loại frigate. Vì cường độ chiến tranh tăng quá lẹ, nên số frigate sản xuất không kịp. Năm 1943, Anh lại cho ra lớp khác lớn hơn một chút. Đó là lớp castle có lượng rẽ nước 1060, dài 77 m, vận tốc 31 km/h. Tất cả hải quân hoàng gia Anh đặt mua 54 chiếc, Canada mua 48 chiếc và Hoàng gia Na Uy mua 1 chiếc.
Trong khi ấy, Úc (Aus) cũng cho ra lò một lớp tương tự gồm 64 chiếc thuộc lớp Bathurst-class corvettes. Úc dùng 60 chiếc còn 4 chiếc khác chuyển sang cho hải quân Ấn Độ.
 
 
Trong thế chiến II, các loại tàu thả thủy lôi, vớt thủy lôi đều được gọi là corvette vì cùng cỡ. Hải quân Tân Tây Lan (New Zealand-NZ) sử dụng loại này làm từ Scottland. Đó là lớp Bird-class.
Vì loại tàu này đảm nhiệm vai trò thứ yếu, nên các quốc gia không chú ý tới phát triển nhiều, mà chỉ dùng nước khác đã làm.
 
Lớp
Quốc Gia
(Hạ thủy)
Lượng rẽ
nước (tấn)
Chiều dài
m
Vận tốc
tối đa
km/h
Hoạt tầm
km
số tàu
 hạ thủy
Bird-class
NZ/1941
930
51
24
 
45
Flower
UK/1939
950
63
31
 
267
Castle
UK/1943
1060
77
31
 
102
Bathurst
Aus/1943
1025
57
28
 
60
 
Ngày nay nhờ vào sự phát triển hỏa tiễn, các tàu này trang bị rất mạnh và lần lần thay thế các loại tàu lớn như Thiết Giáp Hạm (Battle Ship), hay Tuần Dương Hạm (Cruiser). Càng ngày các loại tàu này càng được làm lớn hớn và có khả năng tự chiến đấu.
 

No comments:

Post a Comment