Monday, July 21, 2014

Nghiên cứu CHIẾN HẠM 18


Mặc dù Anh là nước đã làm ra chiếc HKMH đầu tiên, nhưng Nhật là nước áp dụng kiểu HKMH này đầu tiên để tấn công địch quân với chiếc Hōshō.

Hōshō-HKMH
Chuẩn Đô đốc Mỹ- William A Moffett đã hô hào phát triển HKMH cho hải quân cùng thời ấy. Nhưng sau đó hiệp ước Washington ra đời năm 1922, giới hạn kích thước tàu nên các phát minh kế tiếp về HKMH bị đình chỉ. Lúc thấy mòi chiến tranh gia tăng, các HKMH đều được cải biến từ tàu buôn hay chiến thuyền lớn.
Năm 1920, Mỹ cho sản xuất một Khu Trục Hạm rất lớn, lớp Lexington rẽ nước lên đến trên 43000 tấn, dài 270 m, vận tốc 61 km/h. Vì  hiệp ước Washington, nên việc này họ hoãn lại. Nhưng hiệp ước trên không đả động gì đến HKMH, nên Mỹ biến đi chiếc này thành HKMH. Tiếp theo họ cho đặt sừơn chiếc Saratoga. Cả hai làm liên tiếp 7 năm và hạ thủy năm 1927.  Một chiếc cũng là lớp tiên phong HKMH của Mỹ là chiếc Langley, nhỏ hơn và chìm năm 1942 ở phía nam đảo Java- Indonesia.
 
Lớp được dự trù chứa được 78 phi cơ nhiều loại bao gồm 36 chiếc ném bom. Chiếc Lexington bị chìm trong Coral Sea, nam Thái Bình Dương, năm 1942.
Chiếc Saratoga được dùng trong thế chiến II và ghi được rất chiến công. Ngày 20 tháng 2 năm 1945, nó được điều động làm công tác đặc biệt với ít hộ tống. Nó bị đội Kimikaze Nhật đánh phá hư hại nặng nề.
Saratoga bị kamikaze oanh tạc
Chiếc này, cuối cùng, bị làm bia cho cuộc oanh tạc thí nghiệm năm 1946 và chìm.
Nối gót theo Hoa Kỳ, năm 1922, Anh cho sản xuất HKMH thật sự áp dụng trong Chiến tranh. Họ cho làm lớp Courageous và đôi khi còn được gợi là lớp Glorious gồm 3 chiếc. Chiếc đầu tiên được biến cải từ chiếc thiết giáp hạm Glorious. Lớp này có trọng lượng rẽ nước là 27000 tấn, dài 224 m và vận tốc 56 km/h, và hạ thủy năm 1929.
Sơ đồ Glorious class trước khi được biến cải.
Glorious sau khi được biến cải.
Lớp này làm sườn chính trong thế chiến II của hải quân Hoàng Gia Anh.
Đối vời hải quân Nhật, cùng trong thời gian này đã cho đặt sườn chiếc thiết giáp hạm Akagi. Akagi là tên ngọn núi trung tâm hòn đảo lớn nhất nước này. Họ cũng biến chiếc này thành HKMH và hạ thủy năm 1927. Tuy nhiên, nó gồm ba sàn tàu nhỏ kết hợp, nên không có khả năng chở và phóng phi cơ thường nhiều được.
Họ lại đem về tân trang. Năm 1933 thì tái xuất hiện với gương mặt mới.
Akagi năm 1934
Chiếc này là một trong các HKMH đã dẫn đầu đoàn tàu tấn công Pearl Habor và sau đó tham gia nhiều trận hải chiến khác. Nhưng một kết quả bi thảm của nó đến tại Mid Way. Trong trận này, nó bị đánh tàn phế không thể dùng được. Hải quân Nhật dùng 4 chiếc khu trục hạm: Arashi, Hagikaze, Maikaze và Nowaki, mỗi chiếc bắn 1 ngư lôi đánh chìm ngày 25 tháng 9, năm 1942.
Kể từ thập niên 20 về sau, nhiều nước đã đặt làm HKMH thật sự ngay từ ban đầu. Các chiếc này cũng theo thời gian càng ngày càng lớn. Hơn nữa loại HKMH seaplane tender cũng mất tích vì kỹ thuật của máy tăng nhanh vượt bực. Các HKMH sau này chỉ để phóng máy bay có bánh xe.
Kỹ thuật: "bắt" cũng thay đổi, không dùng lưới mà thay vào đó lá một sơi dây cáp thật tốt căng ngang sân bay gọi là arrestor wires. Khi máy bay đáp xuống, và bánh trước vừa qua arrestor wires thì dây này được căng lên. Sau đuôi máy báy sẽ thò ra một móc để móc lấy dây này. Nếu móc trượt thì máy bay sẽ sẵn trớn bay lên lại. Các bạn đừng nghĩ, nếu móc trượt thì máy bay sẽ đâm xuống biển.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật bất ngờ tấn công trận Trân Châu Cảng làm hài quân Mỹ thiệt hại nặng nề, nhưng họ may mắn vì cả 3 hàng không mẫu hạm đều không có mặt trong cảng ngày ấy. Hải quân Mỹ được lệnh phục thù. Nhưng làm sao để làm chuyện này? Nhật vẫn tự hào đất họ là bất khả xâm phạm. Vì vùng biển quanh họ được bảo vệ an toàn. Các máy bay chiến đấu của Mỹ chỉ đủ nhiên liệu bay đến đất này mà không đủ để quay lại HKMH. Nếu dùng các HKMH ấy đem các máy bay chiến đấu thả bom thì chẳng ăn thua gì vì loại này nhỏ chở ít bom. Hải quân Mỹ nghĩ tới việc dùng B-25 một loại oanh tạc cơ hạng trung vào việc ấy. Nhưng đây cũng là một bài toán khó giải.
Trong thời gian này, hệ thống phóng phi cơ catapult được cải tiến liên tiếp. Một loại catapult họat động nhờ một máy bơm hơi nước khổng lồ, có khả năng phóng các oanh tạc cơ B-25 của hãng North American Aviation sản xuất, mà trọng lượng tổng cộng khi cất cánh lên đến gần 16 tấn.
Phóng lên được rồi nhưng không quay về được căn HKMH vì xa, nhưng nêú vể được cũng không đáp được xuống đây. B-25 cần phi đạo đáp khá dài.
Ngày 18 tháng 4- 1942, gần 5 tháng sau trận Trân Châu Cảng, hải quân Mỹ mở chiến dịch Doolittle hay còn được biết với tên “Trận không kích Tokyo” dùng B-25 đánh vào nội địa Nhật. Tất cả có 16 phi cơ và 80 nhân viên phi hành tham dự trận đánh lịch sử này. Tuy nhiên, công việc này là nhiệm vụ một Kinh Kha, ra đi mà khó trở về. Các phi cơ được phóng lên từ đông nam Nhật, bay đến tấn công Nhật rồi tiếp tục bay về phía tây đáp xuống đất TQ, phần do THDQ của Tưởng Giới Thạch kiểm soát.
Trận đánh này gây tổn thất nhẹ cho Nhật với khoảng 50 người chết, 400 bị thương. Ba HKMH bị thiệt hại nhẹ. Phía Mỹ có 3 phi hành đoàn chết, 8 bị bắt làm tù binh. Trong số 8 tù binh này 4 người bị Nhật xử tử. Một máy bạy bị lạc đáp xuống vùng Primorsky Krai, của Liên Xô,  phía tây đảo Hokaido của Nhật. Chiếc máy bay bị tịch thu và đại úy Edward J. York bị bắt giam hơn 1 năm. Tuy nhiên, trận không kích đã chiến thắng về tâm lý, làm cho Nhật thấy đất nước họ không phải là nơi an toàn tuỵệt đối.
Kỹ thuật phóng và nhận máy bay cũng phải được nhiên cứu thật kỹ. Tùy theo cách cấu trúc và trọng lượng, vận tốc cất cánh và hạ cánh thay đổi.  Đối với các phi cơ trên HKMH thì thông thường lúc hạ cánh nhẹ hơn lúc cất cánh, vì vũ khí, nhiên liệu đã tiêu thụ nhiều. Đại để một máy bay khi cát cánh phải đạt vận tốc trên 200km/h trong khi hạ cánh. máy bay phải chậm lại khoảng 150 km/h. Muốn làm tăng vận tốc máy bay, lúc cất cánh, HKMH phải chạy ngược gió với vận tốc cực đại. Với cách ấy vận tốc gió cộng vận tốc HKMH, cộng vận tốc catapult cộng thêm vận tốc máy bay sẽ là vận tốc cất cánh. Lúc máy bay hạ cánh, HKMH cũng phải chạy như trên để làm giảm vận tốc tương đối của sự hạ cánh.
Trên sân bay vủa HKMH không thể chứa nhiều phi cơ một lượt. Chiếc Enterprise của Mỹ có thể chở tới 90 máy bay, như vậy không đủ chỗ cho máy bay đậu. Các kỹ sư thiết kế làm một hầm đậu bên dưới, khi cần thiết sẽ đưa máy bay lên sân bởi một thang máy. Trên sân thường thường chì có khỏang 20 máy bay túc trực, sẵn sàng nghênh chiến.
Ngay khi mới khởi đầu thế chiến II, Mỹ đã cho đóng các HKMH hạng nhẹ vối lượng rẽ nước là 10000 tấn, chứa khỏang dưới 30 phi cơ thôi. Lớp USS Bogue là một lớp tiêu biểu. Người Mỹ gọi loại này là Escort aircraft carrier.
Một B-25 đang cất cánh từ USS_Hornet để tấn cộng Nhật trong chiến dịch Tokyo

No comments:

Post a Comment