CHƯƠNG 01
(tiếp theo)
Với khí hậu bán
sa mạc này, ít trữ lượng hơi nước trong không khí, nên nóng lạnh thay đổi rất
mau. Ngày có khi rất nóng, nhưng đêm có khi rất lạnh. Vì điều kiện khí hậu, địa
lý như vậy nghề chăn nuôi rất phát triển. Việt Nam và các nước trong vùng Đông
Nam Á thì ngược lại. Trong không khí có nhiều hơi nước nên sự thay đổi nhiệt độ
rất lâu; vì vậy trong mùa hè ban đêm vẫn còn hầm hầm nóng.
Hình một cuộc di chuyển chỗ ở của dân du mục Mông Cổ
(Hình từ Life in Genghis Khan’s Mongolia)
Với lối sống
lang thanh này họ hay sinh ra cướp bóc khi thấy có cơ hội và rồi trở thành thói
quen.
Về tôn giáo,
theo quyển “Ghenghis Khan and the Mongol Empire” của nữ tác giả Miriamn
Greeblatt thì từ thời trước người Mông cổ tin vào các thần thánh trên trời xanh
cao vút, vào mặt trời, mặt trăng, núi cao, sông sâu hay các hiện tượng thiên
nhiên, sấm chớp, nhật thực nguyệt thực các thần được gọi là “ovoos”. Những thầy cúng là người có một
quyền năng cao tiếp xúc với thần linh nếu là đàn ông được gọi là “shamans” còn đàn bà là “shamankas”. Dựa vào quyển “The Mongol Empire” của George Lane[1]
thì “shamans” và “shamankas”
là các người rất được trọng vọng. Mọi người hành động theo lời khuyên của các
vị thầy cúng này. Sau này họ thường theo
đạo Phật, nhưng không hiểu hết triết lý kinh điển, lại kết hợp với các tín
ngưỡng cố hữu, nên họ trở thành mê tín, dị đoan. Theo một số tài liệu, họ rất
sợ sấm chớp, cho đó là thiên thần đến trừng phạt.
Các bộ lạc này
còn được người Việt biết đến qua cái tên là Hung Nô. Một trong các nước mà
Trung Quốc gán cho một trong bốn danh từ ám chỉ thiếu văn hóa: man, di, nhung,
địch. Tuy nhiên nước Trung Quốc văn minh vĩ đại cũng đã từng khốn đốn với người
Hung Nô này từ thời xa xưa.
Đến đời Đông
Châu Liệt Quốc, các nước, Tần, Chu, Triệu, Yên …đã phải làm những tường thành ở
phía bắc giáp với các bộ lạc Hung Nô để ngăn ngừa đám người này vào quấy phá.
Nước Tần gọi tường thành của họ là Tần Trường Thành; nước Triệu thì gọi là
Triệu Trường Thành…Đến khi Tần Thủy Hoàng dựng nghiệp năm 220 TCN, cho lệnh nối
các trường thành lại với nhau bắt đầu từ Lop Nur ở phần phía
đông nam Khu tự trị người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) của tỉnh Tân Cương (đây là Tần Trường Thành) cho đến Sơn Hải Quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông (đây là Yên Trường
Thành) và cũng là ranh giới giữa Trung Quốc và Mãn Châu. Bức tường thành mới này được đặt tên
là Vạn Lý Trường Thành -萬里長城, trải
dài 6.352 km
(3,948 mile)[1].
Vạn
Lý Trường Thành gần Bắc Kinh- do nhà Minh xây, khúc này bắt đầu từ năm 1368 đến
năm 1649. (photo VHKT)
Đỗ Phủ
Đến đời Hán, nước Trung Quốc cũng bị thường xuyên
quấy phá, rồi cuối cùng vua Hán phải đem một người đẹp sang làm quà cho chúa
Hung Nô; đó là người đẹp Chiêu Quân. Các câu chuyện về người đẹp này đã là đề
tài cho không biết bao nhiêu tao nhân mặc khách đời sau viết lên các câu
chuyện, bài thơ chứa đầy nước mắt.
Dưới đây là một bài thơ của Đỗ Phủ, một đại thi sĩ
đời Đường đã viết lại chuyện Chiêu Quân.
詠 懷 古 昔
Vịnh hoài cổ tích
群 山 萬 壑 赴 荊 門
生 長 明 妃 尚 有 村
一 去 紫 臺 連 朔 漠
獨 留青 塚 向 黃 昏
畫 圖 省 識 春 風 面
環 珮 空 歸 月 夜 魂
Hoàn bội không qui nguyệt dạ hồn.
千 載 琵 琶 作 胡 語
分 明 怨 恨 曲 中 綸 Phân minh oán hận khúc trung luân.
Kinh Môn hang núi đổ về.
Thôn kia sinh trưởng Minh Phi hãy
còn.
Tử đài, sóc mạc, đi luôn.
Còn lưu thanh chủng hoàng hôn
thẫn thờ.
Tranh biết rõ, mặt thoảng qua.
Lung linh vòng xuyến, hồn mơ
trăng tà.
Giọng Hồ, nghìn thủa tì bà.
Rõ ràng oán hận, nghe qua khúc
này.
Hình Đỗ Phủ
Trần
Trọng San
Trải dài
liên tiếp núi Kinh Môn.
Quê của
Minh Phi ở một thôn.
Lầu tím,
bước sang nơi đất địch.
Mồ xanh lưu
lại dưới hoàng hôn.
Chân dung
gợi chuyện đà thay mặt.
Ngà ngọc,
mơ quê vẫn ở hồn.
Chuyển tiếng tì bà Hồ nhạc khúc.
Tỏ bày mối
hận đã vùi chôn.
VHKT
Trải dài núi thắm kinh Môn
Minh Phi quê ở
một thôn nơi này
Lầu tím, sa mạc sang ngay.
Hoàng hôn soi bóng mồ này vẫn xanh.
Họa đồ vẽ thủa xuân thanh.
Cổ đeo vòng ngọc, lòng thành nhớ quê.
Tì bà Hồ nhạc trổ nghề,
Nói lên oán hận tràn trề bấy lâu.
VHKT
Hình vẽ Chiêu Quân Cống Hồ
của Metropolitan Museum of Art
Hình vẽ vào thế kỷ XIV- Quần áo cũng dựa vào thời gian này
nên có thể
khác với trang phục của thời Hán.
Về đặc tính của
người Mông Cổ thì trong quyển “The Mongol
Empire” đã viết lại một câu của sử gia Ba Tư Javaini (Juwaynī) trang 96 như
sau: Trong hành động, khi tấn công, đột
kích, họ như con thú rừng đang trong cuộc săn mồi. Trong những ngày hòa bình,
an toàn họ giống như các con cừu để sản xuất sữa, lông hay các thứ hữu dụng
khác. [In time of action, when attacking and assaulting, they are like wild
beats out after game, and in the days of peace and security they are like
sheep, yielding milk, and wool, and many other usefull things…]
[2] Minh Phi: Tên trước là Chiêu Quân có họ Vương tên
Tường đời Hán. Đến đời Tấn vì kiêng húy hoàng tộc đổi là Minh Phi. Bài này nói
tới sự tích Chiêu Quân cống Hồ.
[3] Tử đài: Đài tím, nơi vua ở. Thường đài hay thành sơn
mầu tím. Ở Bắc Kinh hiện nay có Tử Cấm Thành và ở Huế cũng vậy.
[4] Sóc mạc: sa mạc phía bắc Trung Quốc, nơi Hung Nô ở.
[5] Thanh Chủng: mồ xanh. Tương truyền ở sóc mạc, cỏ màu
trắng, chỉ mồ chôn Chiêu Quân là mầu xanh.
[6] Bức chân dung của Chiêu Quân do Mao Diên Thọ vẽ.
[7] Theo tương truyền, Chiêu Quân đã gảy tì bà bằng tiếng
Hồ oán trách cho thân phận.
[1]
Vạn Lý Trường Thành thời Tần làm bằng đất trộn
rơm. Đến đời Tùy, Tùy Dạng Đế cho tu bổ lại với các cọc gỗ. Khi nhà Minh đuổi
được Mông Cổ đi về thảo nguyên, họ cho xây lại cái mới với đá và có tháp canh,
dựa vào các điểm cũ. Một số là bức tường thành thứ hai được xây gần Bắc Kinh
hơn. Theo quyển The Great Wall of China- Daniel Schwartz bức tường thứ hai này
được khởi sự xây đợt 1 năm 1368 cho đến năm 1389. Sau đó được xây đợt 2 bắt đầu
năm 1404 đến 1424. Công trình đợt hai dở chừng thì ngưng và lại được tiếp tục
năm 1539 đến năm 1582 thì hoàn tất. Đoạn ba được xây từ năm 1436 và kết thúc
năm 1867. Phần tu bổ lại cuối cùng vào nhà Thanh năm 1867. Và khi du khách đến
xem chính là bức tường thành mới này chứ không phải là bức Vạn Lý Trường Thành
nguyên thủy hơn 2000 năm trước.
No comments:
Post a Comment