Friday, November 18, 2011

Nam Bắc du kí bài 4



Ở xa nhà, nên hai Sáu Truyền và tôi phân nhau: cứ hai tuần một đứa về thăm vợ con, còn một thằng phải ở lại chăm thuốc. Như vậy một tháng chúng tôi lại được về thăm gia đình một lần. Phương tiện chuyên chở là một chiếc đò máy nhỏ, chở các người buôn bán lên Vĩnh Long, tới đây từ 4 giờ sáng và ghé qua Tân Thiền lúc 6 giờ sáng.


TƯỚI THUỐC

Ở đây, làm việc vất vả, cực nhọc nên nhiều lúc thèm chất ngọt. Bánh ngọt hay chè là món quá xa xí. Tốt hơn hết là cuốc bộ xuống chợ Băng Tra, cách đó khoảng 3 cây số, mua một cục đường thẻ, rẻ tiền mầu nâu đen, đem về nấu một ấm trà đặc biệt làm bằng lá cây mắc cở, hà thủ ô với một vài loạị cây hoang khác. Khi nấu lên với màu nâu nâu là ok. Uống vào một hớp trà nóng, gậm một chút đường thẻ, nhưng không được nuốt lẹ để vị ngọt càng ở lâu trong miệng là càng tốt. Thế là xong.
Khi nào nước xuống thật sát, vào dịp trăng tròn hay đầu tháng hai anh em lấy một lưới cá cũ cột vào hai cây tầm vông (tre to bằng cổ tay) dài khoảng 2 mét rưỡi lội kinh hớt tôm cá. Môt tên cầm cây tầm vông đi cách bờ 3 thước, chiểu dài lưới, tên còn lại đi sát bờ. Đi vài chục thước thì tên đi bên ngoài đầm vào bờ rồi cả hai dở lưới lên, thu lượm kết quả. Chúng tôi lội từ nhà vào ngọn độ hơn 1 cây số đến nhà người em họ bên vợ Ba Kim Quang, rồi lại lộn về. Phần nhiều, chúng tôi hớt được 1 tô tôm và cá lòng tong. Về nhà hai anh em lại làm cá, kho một nồi con con ăn nửa tháng.
Có hôm gặp anh em vợ này; anh chào tôi nói:
- Phục ông thầy sát đất. Làm đủ mọi nghề.
 Kim Quang lớn hơn tôi đến chục tuổi, có hai con trai, cho đi học ở Trà Vinh. Năm cuộc chiến đến hồi gay cấn, hai con trai anh chèo xuồng ra sông cái đón đò đi học thì bị máy bay bắn chết. Tôi thấy anh bị hoàn cảnh đau khổ lảm bài thơ tả lại nhưng không dám cho anh coi.
Bạn Tôi
                                                                    
Quê anh ở chốn đồng sâu.
Quanh năm cầy cấy cùng trâu với bò.

Sinh hai con gắng lo ăn học.
Gửi lên thành khó nhọc cũng cam.
Mong sau con có việc làm.
Ở nơi thành thị mở mang với đời.

Khi khói lửa tuổi thời mới lớn.
Đến Trà Vinh là chốn học hành.
Vì quê anh vốn chiến tranh.
Một năm vài độ về nhanh thăm nhà.

Ấy là phút mẹ cha gặp gỡ.
Rồi đi mau kẻo lỡ chuyện buồn.
Dặn con cẩn thận luôn luôn.
Máy bay bắn phá, trong thôn chúng mình.

Đời tăm tối, bình minh mong lại.
Sau vài năm từng trải phong ba.
Tết đến, hai cậu thăm nhà.
Vui đùa trong họ được ba ngày liền.

Ngày mùng bốn, cho tiền rồi dặn:
“Khi qua sông, cẩn thận con nhe.
Tầu bay bắn phá thuyền bè.
Tưởng mình Việt Cộng; e dè thì hay.”

Con đi khỏi máy bay bỗng lượn.
Súng nổ ròn; rời rụng chân tay.
Thôi rồi! Lại chuyện không may.
Sông cái, vội chạy đến ngay để tìm.

Thuyền lờ lững, con chìm mất tích.
Lòng quặn đau, sao biết bây giờ?
Đường về, nước mắt che mờ.
Ba ngày sau xác dập bờ vớt lên.

Vợ chồng đã đêm rên, ngày siết.
Chuyện thảm thương ai biết trước đâu.
Bây giờ đành chịu đớn đau.
Sự đời sui rủi đổ đầu nhà anh.
 VHKT

No comments:

Post a Comment