Cao Bá Quát con ông Cao Bá Nhạ, tác giả Tự tình khúc, sinh
khoảng năm 1809 tên tự là Chu
Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Ông là
người làng Phú Thị, huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông là con Cao Tửu Chiếu, tuy không đỗ
đạt nhưng là một nhà nho khá nổi danh; và là em song sinh với Cao Bá Đạt. Thuở nhỏ, Cao Bá
Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và
văn hay chữ tốt. Năm 14 tuổi, ông trúng tuyển kỳ thi khảo hạch ở Bắc Ninh. Năm
Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi
duyệt quyển, thì bị bộ Lễ kiếm cớ xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20
người đỗ cử nhân. Sau đó trong chín năm, Cao Bá Quát vào kinh đô dự
thi Hội, nhưng lần nào cũng bị đánh hỏng nhiều lần liên tiếp.
Năm 1841, mới
được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử lên triều đình, triệu vào Huế để nhận một chức tập sự ở Lễ bộ (hành tẩu ) lúc ấy ông đã 32 tuổi. Tháng 8 năm đó, ông được
cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với bạn đồng
sự là Phan Nhạ rồi lấy son hòa muội đèn chữa giúp 24 quyển. Việc bị phát giác,
giám trường thi là Hồ Trọng Tuấn đàn hặc, ông bị bắt giam, bị tra tấn rồi bị
kết vào tội chết. Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị đã giảm cho ông từ tội trảm
quyết xuống tội giảo giam hậu, tức được giam lại đợi lệnh.
Sau gần ba năm
bị giam cầm khổ sở, ông được triều đình tạm tha.
Về Hà Nội, ông dạy học nhưng luôn sống trong cảnh nghèo và
bệnh tật. Ở đây những lúc rỗi, ông thường xướng họa với các danh
sĩ là Nguyễn
Văn Siêu
Sau ba năm bị
thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào kinh (1847) làm ở Viện Hàm lâm,
lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Được hơn một tháng, ông nhận lệnh đi công
cán ở Đà Nẵng, rồi trở về công việc cũ. Thời gian ở kinh lần này, ông kết thân
với các văn nhân nổi tiếng thời ấy...và ông đã gia nhập Mạc Vân Thi xã do hai vị hoàng thân này sáng
lập.
Năm 1851, không được lòng một số quan lớn tại
triều, Cao Bá Quát phải rời kinh đô Huế đi làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai thuộc Sơn Tây. Một lần nữa, ông lại trở về quê để cùng khổ với
dân, để suy nghĩ thêm về những chính sách hà khắc của triều đình, để thêm quyết
tâm đánh đổ nó.
Giữa năm 1853, lấy cớ về nuôi mẹ già, ông xin thôi
dạy học. Gặp lúc vùng Sơn Tây bị hạn nặng, đời sống người dân hết sức đói khổ. Khoảng cuối năm 1854, Cao Bá Quát tham gia
lãnh đạo (tự lãnh chức quốc sư) cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây), do
Lê Duy Cự cầm đầu. Triều đình đem quân dẹp và ông bị bắn chết tại trận năm
1855.
Tuy nhiên, có sử
lại nói ông bị bắt và chém đầu.
Tuy nhiên, có sừ
lại nói ông bị bắt và chém đầu.
暮 橋 歸 女
Mộ kiều[1]
quy nữ
思 量 寒 苦 未 當 饑
思 量 寒 苦 未 當 饑
Phong lộ quá kiều hồn[7]
bất ác,
倚 門 應 有 望 儂 歸
倚 門 應 有 望 儂 歸
Cô gái từ trên cầu trở về lúc
buổi tối
So sánh lạnh vẫn còn thua đói.
Trấu bám xiêm sáng chói như châu.
Gió sương run rẩy qua cầu.
Nhớ người tựa cửa âu sầu trông mong.
VHKT
Lạnh cùng với đói thấy mà
ghê.
Trấu bám áo xiêm mới được
thuê.
Sương gió qua cầu làm giá
buốt
Nhớ người tựa cửa ngóng trông
về.
VHKT
No comments:
Post a Comment