Tuesday, March 5, 2013

Hoàng Hạc Lâu


Hoàng Hạc lâu (黄鹤楼) là một ngôi tháp lịch sử, thường được xây đi xây lại đứng ở trên Xà Sơn thuộc thành phố Vũ Hán của Trung Quốc. Hoàng Hạc lâu được xem là một trong bốn Tứ Đại Danh Tháp của Trung Quốc. Tháp này đứng bên bờ sông Dương Tử hay còn được gọi là Trường Giang. Tháp hiện nay là một công trình được xây lại bằng vật liệu hiện đại và có một cầu thang máy. Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng thông qua bài thơ Hoàng Hạc lâu  của nhà thơ Thôi Hạo hay Thôi Hiệu(崔顥), một thi nhân thời đời Đường.

Thôi Hiệu sinh khoảng năm 704, mất năm 754 người Biện Châu 汴州 (nay là tỉnh Hà Nam,Trung Quốc), đỗ tiến sĩ năm 723, làm quan đến chức Tư Huân viên ngoại lang. Tính tình lãng nạm hay cờ bạc. Ông còn lưu lai được tập I thơ. Người Đương thời cho biết, Thôi Hiệu rất nổi tiếng, nay thơ của ông chỉ còn lại hơn 40 bài, trong đó Hoàng Hạc lâu được coi là một trong những bài thơ hay nhất thời Đường. Tương truyền rằng, Lý Bạch (Thi Tiên) bị biếm, khi đến Hoàng Hạc lâu đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút không làm thơ nữa! Cùng với Vương Duy (Thi Phật), ông được coi là một trong những người tinh thông cận thể thi.
 

Hoàng Hạc Lâu- hình chụp từ thế kỉ 19- ảnh Wikipedia

Hoàng Hạc Lâu- ngày nay- ảnh Wikipedia

 
Thơ Nguyễn Du đã từng đi sứ sang Trung Quốc. Ông lại được dịp ghé Hoàng Hạc Lâu, nơi có bài thơ nổi tiếng của Thôi Hạo. Ông cũng làm baì thơ cùng tựa Hoàng Hạc Lâu.
Ta hãy xem bài thơ Thôi Hạo làm vào thời nhà Đường trước và sau xem thơ Nguyễn Du.

黃鶴樓                         
Hoàng Hạc Lầu:
昔人已乘黃鶴去,                 
Tích nhân dĩ thừa[[1]] Hoàng Hạc khứ,
此地空餘黃鶴樓。                 
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
黃鶴一去不復返,                 
Hoàng hạc bất khứ bất phục phản,
白雲千載空悠悠。                 
Bạch vân thiên tải[[2]] không du[[3]] du.
晴川歷歷漢陽樹,                 
Tình xuyên lịch[[4]] lịch Hán Dương thụ,
芳草萋萋鸚鵡洲。                 
Phương thảo thê[[5]] thê Anh Vũ châu.
日暮鄉關何處是,                 
Nhật mộ hương quan[6] hà xứ thị?
煙波江上使人愁
                      
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
            Tác giả:
崔顥  Thôi Hiệu (Hạo)
 
Lầu Hoàng Hạc
 
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm, mây trắng bây giờ còn bay.
Hán dương sông lạnh, cây bầy
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !
                                    Tản Đà (dịch thơ):
Lầu Hoàng Hạc
Chuyện xưa: người cỡi hạc bay đi.                
Hoàng Hạc lầu kia không khác gì.                
Hoàng Hạc muôn năm bay chẳng lại.           
Bạch vân vạn thủa hợp rồi li.                         
Hán Dương, sông lạnh cây chi chít.              
Anh Vũ, bãi nông cỏ rậm rì.                           .
Trong bóng chiều tà quê chẳng thấy.                                     
Trên sông khói sóng gợi sầu bi.                                 
                                    VHKT- 2008.                                                             
 
Người xưa cỡi hạc bay đi.
Ngày nay Hoàng Hạc có gì khác đâu.
Hoàng hạc bay chẳng quay đầu.
Mây cao muôn thủa một mầu trắng tinh.
Hán Dương cây cối in hình.  
Bãi kia Anh Vũ thanh bình cỏ thơm.
Chiều về nhìn lại cố thôn.
Trên sông khói sóng, nỗi hờn dâng cao.
 VHKT


[1] Thừa: cỡi
[2] Tải: chở, nâng.
[3] Du: xa vời.
[4] Lịch: 1. trải qua, vượt qua. 2. lịch (như: lịch )
[5] Thê: cỏ xanh xanh.
[6] Quan hay quán: Quan sát, nhìn.


No comments:

Post a Comment