Friday, January 27, 2012

Nam Bắc du kí bài 45

Rời Quảng Trị chúng tôi tiến sang tỉnh Quảng Bình. Ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, mà chúng tôi vừa qua cũng còn là quê hương của đôi dép râu nổi tiếng trong hai chiến tranh liên tiếp từ 1946 đến 1975: dép Bình Trị Thiên. Trong thời kháng chiến chống Pháp, đại tá CS Hà Văn Lâu sáng chế ra đôi dép nói trên. Tỉnh này có diện tích trên 8065 km2, đứng thứ 12 và với dân số 848 ngàn đứng thứ 47. Tỉnh lỵ là thị xã Đồng Hới.    

                  
Tỉnh này, có động Phong Nha nổi tiếng (Mới đây phại phát hiện một động khác mà các nhà thám hiểm Anh đã cho biết đó là động lớn nhất thế giới). Nơi này, chúng tôi rất ao ước xem, nhưng thì giờ để về những nơi chôn nhau cắt rốn quan trọng hơn, nên đành dẹp mộng sang một bên và chờ một dịp khác.
Quảng Bình đệ nhất Phong Nha.
Lý Hòa đệ nhị kế là Cảnh Dương.
Sông Gianh một thủa phân đường.
Lũy thầy, Võ Xá nơi thường chiến tranh.  
Đây lại là một vùng chia đôi đất nước trong 200 năm, dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh với con sông Gianh. Ngoài ra ở đây còn các lũy Trường Dục và lũy Thầy do Đào Duy Từ xây dựng. Đào Duy Từ quê Thanh Hóa là con một gia đình xướng ca làm cho chúa Trịnh, nên theo quan niệm thời đó “Xướng ca vô loài” nên ông không được thi cử trổ tài. Ông trốn vào Nam, làm nghề chăn trâu ở Bình Định. Sau chủ nhân nhận ra ông là một thiên tài nên gả con gái cho ông và tiễn dẫn đến Chúa Nguyễn. Sau nhiều lần thử tài Chúa Nguyễn phong ông làm Quân Sư. Thời ấy Chúa Nguyễn mới lập nghiệp, yếu kém so với Chúa Trịnh, nên thường bị xâm lăng. Nhưng nhờ các lũy ông làm, quân Trịnh bị bại liên tiếp, đến nỗi họ đồn với nhau là: “Thứ nhất Lũy Thầy, thứ nhì đầm lầy Võ Xá.”
Chúa Trịnh tiếc, nên cho ngưởi vào dụ Đào Duy Từ về lại bắc. Ông từ chối và cảm hứng với bài thơ:  Tiết Phụ Ngâm của Trương Tịch. Thi sĩ này có một câu chuyện tương tự, như sau. Trương Tịch muốn giúp Lý Sư Cổ, nhưng Cổ không nhận. Sau Trương Tịch sang giúp cho một ngừơi khác. Lý Cổ Sư nghe tài muốn kéo về. Cổ gửi thư sang mời, Tịch làm bài thơ này để tạ từ.
節婦 吟                                               Tiết phụ ngâm
 知 妾 有 夫                             Quân tri thiếp hu phu.
                              Tặng thiếp song minh châu.
綿                               Cảm quân triền miên ý.
                             Hệ tại hồng la nhu.
                    Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi.
                    Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
                    Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt.
                    Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.
                    Hoàn quân minh châu song lệ thủy.
                    Hận bất tương phùng vị giá thì.
                                                                        Trương Tịch

Bài dịch:   

Khúc ngâm của người tiết phụ.

Chàng biết thiếp có chồng.
Minh châu đem tặng không.
Cảm ơn chàng có ý.
Đeo dứơi lớp lụa hồng.
Nhà thiếp ở dãy lầu cao.
Chồng thiếp cầm kích ra vào Minh Quang.
Lòng chàng biết tợ trăng vàng.
Theo chồng sống chết sắt gang một lòng.
Hoàn châu mà lệ đôi dòng.
Khi chưa xuất giá sao không tương phùng.
 VHKT

Ông Đào Duy Từ làm bài thơ:
Trèo lên cây bưởi để đáp lại.
Trèo lên cây bưởi hái hoa.
Bước xuống vườn cà hai nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc.
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay.
Tiếc gì một miếng trầu cay.
Sao anh không hỏi những ngày còn không.
Bây giờ em đã có chồng.
Như chim vào lồng như cà cắn câu.
Cá cắn câu biết đẩu mà gỡ.
Chim vào lồng biết thủa nào ra.

No comments:

Post a Comment